\id JOB - Biblica® Open Vietnamese Contemporary Bible 2015 (Biblica® Thiên Ban Kinh Thánh Hiện Đại) \ide UTF-8 \h Gióp \toc1 Gióp \toc2 Gióp \toc3 Gióp \mt1 Gióp \c 1 \s1 Lời Mở Đầu \p \v 1 Có một người tên Gióp sống tại đất U-xơ. Ông là người không chê trách vào đâu được—một người hoàn toàn chính trực. Ông kính sợ Đức Chúa Trời và tránh xa tội ác. \v 2 Ông có bảy con trai và ba con gái. \v 3 Tài sản gồm 7.000 chiên, 3.000 lạc đà, 500 cặp bò, và 500 lừa cái. Ông có rất nhiều đầy tớ. Ông là người giàu có nhất Đông phương. \p \v 4 Các con trai của Gióp thường luân phiên mở tiệc tại nhà riêng và mời ba chị em gái tham dự. \v 5 Sau khi các ngày tiệc kết thúc—có khi kéo dài nhiều ngày—Gióp sai gọi các con về để làm lễ thanh tẩy. Ông thức dậy sớm dâng tế lễ thiêu cho mỗi người con vì Gióp thầm nghĩ rằng: “Có thể con cái ta phạm tội và xúc phạm Đức Chúa Trời trong lòng!” Gióp thường làm lễ thanh tẩy như vậy. \s1 Thử Thách Thứ Nhất \p \v 6 Một hôm, các thiên sứ đến chầu Chúa Hằng Hữu, Sa-tan cùng đến với họ. \v 7 Chúa Hằng Hữu hỏi Sa-tan: “Ngươi từ đâu đến đây?” \p Sa-tan trả lời Chúa Hằng Hữu “Tôi lang thang trên đất, ngắm nhìn mọi việc xảy ra.” \p Chúa Hằng Hữu hỏi Sa-tan: \v 8 “Ngươi có thấy Gióp, đầy tớ Ta không? Khắp đất không ai bằng Gióp. Đó là một người trọn lành—một người hoàn toàn chính trực, kính sợ Đức Chúa Trời, và tránh xa điều ác.” \p \v 9 Sa-tan đáp lời Chúa Hằng Hữu: “Đúng, nhưng Gióp kính sợ Đức Chúa Trời không phải là vô cớ? \v 10 Vì Chúa đã làm hàng rào bảo vệ chung quanh ông, nhà cửa, và mọi tài sản. Chúa ban phước lành cho công việc của tay ông. Hãy xem ông giàu thế nào! \v 11 Nếu Chúa thử đưa tay hủy hoại tài sản, chắc chắn ông sẽ nguyền rủa Chúa ngay!” \p \v 12 Chúa Hằng Hữu phán bảo Sa-tan: “Được, ngươi có thể thử người, tất cả những gì người có thuộc quyền ngươi, nhưng đừng đụng vào thân xác người!” Vậy Sa-tan rời khỏi Chúa Hằng Hữu. \p \v 13 Một hôm, khi các con trai và con gái của Gióp đang tiệc tùng tại nhà người anh cả, \v 14 bỗng một đầy tớ đến báo tin cho Gióp: “Đàn bò của ông đang cày, đàn lừa đang ăn cỏ, \v 15 thì người Sê-ba tấn công. Họ cướp hết bò lừa, và giết tất cả đầy tớ. Chỉ một mình con thoát khỏi chạy về đây trình báo với ông.” \p \v 16 Trong khi người này đang nói, thì một đầy tớ khác chạy đến báo: “Một ngọn lửa của Đức Chúa Trời từ trời rơi xuống, thiêu chết cả bầy chiên và các mục đồng. Chỉ một mình con thoát khỏi chạy về đây trình báo với ông.” \p \v 17 Trong khi người ấy chưa dứt, thì một đầy tớ thứ ba đến thưa: “Ba đội quân Canh-đê đã đánh cướp hết lạc đà và giết tất cả nô bộc. Chỉ có một mình con thoát khỏi chạy về đây trình báo với ông.” \p \v 18 Trong khi người ấy còn đang nói, thì một đầy tớ nữa chạy đến báo: “Các con trai và con gái của ông đang dự tiệc trong nhà anh cả. \v 19 Bất thình lình, một trận cuồng phong thổi từ hoang mạc đến và quật vào bốn góc nhà. Nhà sập xuống, và tất cả con cái của ông đều chết. Chỉ còn một mình con sống sót về báo tin cho ông.” \p \v 20 Gióp đứng dậy, xé rách chiếc áo choàng. Rồi ông cạo đầu và phủ phục dưới đất mà thờ lạy. \v 21 Ông nói: \q1 “Con trần truồng lọt lòng mẹ, \q2 con sẽ trần truồng khi trở về. \q1 Chúa Hằng Hữu cho con mọi sự, \q2 nay Chúa Hằng Hữu lại lấy đi. \q2 Danh Chúa Hằng Hữu đáng tôn ngợi biết bao!” \p \v 22 Trong các tai họa ấy, Gióp đã không phạm tội xúc phạm Đức Chúa Trời. \c 2 \s1 Thử Thách Thứ Hai \p \v 1 Một ngày kia, các thiên sứ lại đến chầu Chúa Hằng Hữu, Sa-tan cũng đến với họ. \v 2 Chúa Hằng Hữu hỏi Sa-tan: “Ngươi từ đâu đến đây?” \p Sa-tan trả lời Chúa Hằng Hữu: “Tôi lang thang trên đất, ngắm nhìn mọi việc xảy ra.” \p \v 3 Chúa Hằng Hữu hỏi Sa-tan: “Ngươi có thấy Gióp, đầy tớ Ta không? Đó là người tốt nhất trên đất. Là người trọn lành—một người hoàn toàn chính trực. Là người kính sợ Đức Chúa Trời và tránh xa điều ác. Dù ngươi xin Ta hại người vô cớ, Gióp vẫn cương quyết sống trọn lành.” \p \v 4 Sa-tan đáp lời Chúa Hằng Hữu: “Da đền cho da! Người ta chịu mất tất cả để đổi lấy sinh mạng mình. \v 5 Nếu Chúa đưa tay hại đến xương thịt ông ta, chắc chắn Gióp sẽ nguyền rủa Chúa ngay!” \p \v 6 Chúa Hằng Hữu phán bảo Sa-tan: “Được, hãy làm điều ngươi muốn, nhưng không được hại đến mạng sống người.” \v 7 Vậy Sa-tan lui khỏi mắt Chúa, và khiến cho Gióp bị ung nhọt đau đớn từ đầu đến chân. \p \v 8 Gióp gãi da mình bằng mảnh sành và ngồi giữa đống tro. \v 9 Vợ ông nói: “Ông vẫn cương quyết sống đạo đức sao? Hãy nguyền rủa Đức Chúa Trời rồi chết đi.” \p \v 10 Nhưng Gióp đáp: “Bà nói năng như người đàn bà khờ dại. Tại sao chúng ta chỉ nhận những điều tốt từ tay Đức Chúa Trời, mà không dám nhận tai họa?” Trong mọi việc này, Gióp đã không làm một điều nào sai trái. \s1 Ba Bạn của Gióp Chia Sẻ Nỗi Đau với Ông \p \v 11 Khi ba bạn của Gióp nghe tin ông bị tai họa, họ liền họp lại rồi từ quê nhà đến thăm để chia buồn và an ủi ông. Ba người đó là Ê-li-pha, người Thê-man, Binh-đát, người Su-a, và Sô-pha, người Na-a-ma. \v 12 Khi thấy Gióp từ xa, họ không thể nhận ra ông. Họ khóc lớn tiếng, xé áo mình, và ném bụi lên không để bụi rơi xuống đầu họ. \v 13 Rồi họ ngồi xuống đất bên cạnh Gióp suốt bảy ngày và bảy đêm. Không ai nói một lời nào với Gióp, vì họ thấy nỗi đau khổ của ông quá lớn. \c 3 \s1 Lời Thứ Nhất của Gióp \p \v 1 Cuối cùng Gióp cũng mở miệng, và ông nguyền rủa ngày sinh của mình. \v 2 Ông nói: \q1 \v 3 “Ước gì ngày sinh của ta tan mất đi, \q2 và đêm ta được thai dựng không có. \q1 \v 4 Nguyện ngày ấy là ngày tăm tối. \q2 Đức Chúa Trời trên cao cũng chẳng đoái hoài, \q2 và không có ánh sáng chiếu trên nó. \q1 \v 5 Nguyện bóng tối và tử vong chuộc ngày ấy lại. \q2 Nguyện mây đen phủ lên nó, \q2 và bóng tối làm nó kinh hoàng. \q1 \v 6 Nguyện đêm ấy bị lấy ra khỏi lịch, \q2 không bao giờ được kể giữa các ngày trong năm nữa, \q2 cũng không bao giờ xuất hiện giữa các tháng. \q1 \v 7 Nguyện đêm ấy ra hoang vu tẻ lạnh; \q2 không lời vui, không một tiếng cười. \q1 \v 8 Nguyện những ai hay báng bổ— \q2 những ai có thể chọc giận Lê-vi-a-than— \q2 hãy nguyền rủa ngày ấy. \q1 \v 9 Nguyện những sao mai cứ tối tăm mãi. \q2 Nguyện đêm trông chờ ánh sáng, nhưng vô ích; \q2 cũng không bao giờ thấy chút rạng đông. \q1 \v 10 Ngày đáng nguyền rủa cho mẹ hoài thai \q2 để rồi tôi ra đời chịu mọi đắng cay. \b \q1 \v 11 Sao tôi không chết đi khi sinh ra? \q2 Sao tôi không chết khi vừa mới lọt lòng? \q1 \v 12 Sao tôi được nằm trên lòng của mẹ tôi? \q2 Sao người cho tôi bú sữa nơi vú của người? \q1 \v 13 Nếu tôi chết khi sinh, thì nay tôi được bình yên. \q2 Tôi đã an giấc và nghỉ ngơi mãi mãi. \q1 \v 14 Tôi có thể an nghỉ với các vua và các vương hầu thế gian, \q2 nơi thành trì của họ nay nằm trong đổ nát. \q1 \v 15 Tôi có thể an nghỉ với các hoàng tử có đầy vàng, \q2 cung điện của họ được phủ đầy bạc. \q1 \v 16 Sao tôi không được chôn như đứa trẻ sơ sinh, \q2 như em bé không được sống để thấy ánh sáng? \q1 \v 17 Vì trong cõi chết, kẻ ác thôi gây phiền muộn, \q2 và người mỏi mệt được nghỉ ngơi. \q1 \v 18 Ngay cả tù nhân cũng được thảnh thơi trong cõi chết, \q2 không còn gì tai ương áp bức. \q1 \v 19 Người giàu và người nghèo đều ở đó, \q2 và người nô lệ được tự do khỏi chủ mình. \b \q1 \v 20 Ôi, tại sao ban ánh sáng cho người khốn khổ, \q2 và sự sống cho người đắng cay? \q1 \v 21 Họ trông mong chết, nhưng cái chết không đến. \q2 Họ tìm sự chết còn hơn của cải giấu kín. \q1 \v 22 Lòng tràn đầy mừng vui khi cuối cùng được chết, \q2 và hân hoan khi được nằm trong huyệt mộ! \q1 \v 23 Sao ban sự sống cho người không có tương lai, \q2 những người Đức Chúa Trời đã đặt đau khổ chung quanh? \q1 \v 24 Tôi không thể ăn được vì than thở; \q2 tiếng kêu rên của tôi tuôn đổ như nước. \q1 \v 25 Những gì tôi sợ đã phủ lên tôi. \q2 Những gì tôi kinh hãi đã xảy đến. \q1 \v 26 Tôi không có bình an, không yên tịnh. \q2 Tôi không được nghỉ ngơi; mà chỉ đến toàn điều phiền muộn.” \c 4 \s1 Ê-li-pha Đáp Lời Gióp Lần Thứ Nhất \p \v 1 Ê-li-pha, người Thê-man, đáp lời Gióp: \q1 \v 2 “Anh có thể kiên nhẫn để nghe tôi nói vài lời chứ? \q2 Vì ai có thể yên lặng mãi được? \b \q1 \v 3 Bấy lâu nay anh từng khuyên dạy nhiều người; \q2 anh đã giúp người yếu trở nên mạnh mẽ. \q1 \v 4 Lời anh nói đã nâng đỡ người bị vấp ngã; \q2 anh đã làm vững mạnh những đầu gối run rẩy. \q1 \v 5 Nhưng nay khi tai họa xảy ra, anh đã nản lòng. \q2 Anh đã hoảng kinh khi nó vừa chạm đến anh. \q1 \v 6 Chẳng phải lòng kính sợ Đức Chúa Trời giúp anh tự tin sao? \q2 Chẳng lẽ đời sống trọn lành của anh không còn là niềm hy vọng? \b \q1 \v 7 Hãy dừng lại và suy nghĩ! Có người vô tội nào bị chết mất không? \q2 Có ai vô tội mà bị hư vong? \q2 Có khi nào người công chính bị hủy diệt? \q1 \v 8 Theo như tôi thấy chỉ những ai trồng tai họa \q2 và nuôi dưỡng tội ác mới bị hủy diệt. \q1 \v 9 Họ tiêu tan trước hơi thở của Đức Chúa Trời. \q2 Và hư vong lúc thịnh nộ Ngài tuôn ra. \q1 \v 10 Tiếng gầm thét hung hăng của sư tử im bặt, \q2 nanh của sư tử cũng sẽ bị bẻ gẫy. \q1 \v 11 Sư tử hung mạnh sẽ chết vì thiếu mồi, \q2 và đàn sư tử con sẽ tan tác. \b \q1 \v 12 Một sự thật đến với tôi trong bí mật, \q2 như tiếng thì thầm trong tai tôi. \q1 \v 13 Nó đến với tôi trong khải tượng lo âu lúc đêm khuya \q2 khi mọi người đang chìm sâu trong giấc ngủ. \q1 \v 14 Nỗi sợ hãi kềm chặt tôi, \q2 và xương cốt tôi run lẩy bẩy. \q1 \v 15 Có một vị thần đi ngang qua mặt tôi, \q2 và tôi khiếp đảm đến dựng tóc gáy. \q1 \v 16 Thần dừng lại, nhưng tôi không thấy rõ dạng hình. \q2 Chỉ là một hình thể trước mắt tôi. \q2 Trong yên lặng, tôi nghe một giọng nói: \q1 \v 17 ‘Người phàm có thể công chính trước mặt Đức Chúa Trời chăng? \q2 Liệu có ai trong sạch trước mặt Đấng Sáng Tạo?’ \b \q1 \v 18 Nếu Đức Chúa Trời không tin tưởng các thiên sứ của Ngài, \q2 và phạt các sứ giả của Ngài vì ngu dại, \q1 \v 19 thì làm sao Ngài tin được vào loài người vốn được tạo nên bằng đất sét! \q2 Họ được làm từ cát bụi, và dễ bị nghiền nát như loài sâu mọt. \q1 \v 20 Họ sống buổi rạng đông và chết mất lúc hoàng hôn, \q2 tan biến vĩnh viễn không ai biết đến! \q1 \v 21 Dây lều của họ bị kéo đứt và lều sụp xuống, \q2 và họ chết mà chẳng được chút khôn ngoan.” \c 5 \s1 Ê-li-pha Tiếp Tục Đáp Lời \q1 \v 1 “Hãy kêu khóc xin giúp, xem có ai sẽ trả lời anh không? \q2 Trong các thần thánh có vị nào giúp đỡ anh? \q1 \v 2 Chắc chắn sự oán giận sẽ hủy diệt người dại, \q2 và lòng ghen tị sẽ giết người đơn sơ. \q1 \v 3 Tôi đã thấy người dại được thành công trong chốc lác, \q2 nhưng rồi thình lình xảy đến tai ương. \q1 \v 4 Con cái họ bị ruồng bỏ không ai giúp; \q2 bị nghiền nát không ai che chở. \q1 \v 5 Người đói ăn mùa màng của họ, \q2 ngay cả khi dành giựt giữa bụi gai. \q2 Người khát thèm muốn của cải mình. \q1 \v 6 Vì sự gian tà không ra từ cát bụi, \q2 khốn khó chẳng từ đất nảy sinh. \q1 \v 7 Người ra đời để chịu khổ, \q2 như tàn lửa lúc nào cũng bay lên cao. \b \q1 \v 8 Nếu là tôi, tôi sẽ kêu cầu Đức Chúa Trời, \q2 và giãi bày duyên cớ tôi với Ngài. \q1 \v 9 Chúa làm việc lớn ai lường được. \q2 Các việc diệu kỳ, ai đếm cho xuể. \q1 \v 10 Ngài ban mưa cho đất \q2 và nước cho ruộng đồng. \q1 \v 11 Ngài cất nhắc người thấp kém \q2 và bảo vệ người sầu khổ. \q1 \v 12 Chúa phá tan mưu người xảo trá \q2 khiến công việc của tay chúng chẳng thành công. \q1 \v 13 Ngài bắt kẻ khôn ngoan trong mưu chước mình, \q2 khiến mưu đồ xảo trá của chúng bị phá tan. \q1 \v 14 Chúng gặp bóng tối giữa ban ngày, \q2 và giữa trưa chúng mò mẫm như trong đêm tối. \q1 \v 15 Chúa cứu người nghèo khổ khỏi lời sắc bén mạnh mẽ, \q2 và cứu họ khỏi tay kẻ hung tàn áp bức. \q1 \v 16 Nên người khổ nẩy sinh hy vọng, \q2 và hàm kẻ bất công đành im tiếng. \b \q1 \v 17 Phước cho người được Đức Chúa Trời khuyên dạy! \q2 Đừng khinh thường kỷ luật của Đấng Toàn Năng. \q1 \v 18 Vì Ngài gây thương tích, rồi Ngài lại băng bó, \q2 Ngài đánh đau, rồi Ngài lại chữa lành. \q1 \v 19 Ngài sẽ ra tay giải cứu anh khỏi sáu cơn hoạn nạn; \q2 ngay đến cơn thứ bảy, Ngài cũng sẽ giữ anh khỏi tai họa. \q1 \v 20 Gặp nạn đói, Ngài cứu anh khỏi chết, \q2 trong chiến trận khỏi sức mạnh gươm đao. \q1 \v 21 Bị vu oan nhưng chẳng nao núng, \q2 dù tàn phá, lòng không kinh sợ. \q1 \v 22 Anh cười trong lúc hoang tàn và đói kém; \q2 thú rừng hung dữ không làm anh khiếp kinh. \q1 \v 23 Anh kết ước với đá ngoài đồng, \q2 và thú rừng sẽ thuận hòa với anh. \q1 \v 24 Anh sẽ thấy nhà anh bình an vô sự. \q2 Khi anh kiểm soát bầy súc vật, không mất mát con nào. \q1 \v 25 Anh sẽ có rất nhiều con cái; \q2 dòng dõi anh sẽ như cỏ ngoài đồng! \q1 \v 26 Anh sẽ vào phần mộ lúc tuổi cao, \q2 như bó lúa gặt hái đúng hạn kỳ! \b \q1 \v 27 Chúng tôi tìm hiểu như thế và thấy hoàn toàn đúng. \q2 Hãy lắng nghe lời khuyên của tôi, và áp dụng cho bản thân.” \c 6 \s1 Lời Thứ Hai của Gióp: Đáp Lời Ê-li-pha \p \v 1 Rồi Gióp đáp lại rằng: \q1 \v 2 “Ước gì nỗi khổ này đem đo lường được \q2 và tai ương của tôi được để lên cân, \q1 \v 3 hẳn chúng sẽ nặng hơn cát biển. \q2 Đó là tại sao tôi nói chẳng nên lời. \q1 \v 4 Mũi tên Đấng Toàn Năng bắn hạ tôi, \q2 chất độc ăn sâu đến tâm hồn. \q2 Đức Chúa Trời dàn trận chống lại tôi khiến tôi kinh hoàng. \q1 \v 5 Tôi không có quyền phàn nàn chăng? \q2 Có phải lừa rừng kêu khi không tìm thấy cỏ \q2 hay bò đực rống lúc không có thức ăn? \q1 \v 6 Có ai không than phiền khi thức ăn nhạt nhẽo? \q2 Có ai muốn lòng trắng trứng vô vị chăng? \q1 \v 7 Tôi không muốn đụng đến thức ăn; \q2 nghĩ tới thôi, tôi đã thấy buồn nôn! \b \q1 \v 8 Ôi ước chi tôi được dâng lời thỉnh nguyện, \q2 rằng Đức Chúa Trời sẽ ban cho điều tôi mong mỏi. \q1 \v 9 Tôi ước gì được Ngài nghiền nát. \q2 Ước gì Ngài đưa tay chấm dứt đời tôi. \q1 \v 10 Ít nhất tôi cũng được vui thỏa trong việc này: \q2 Dù đau đớn không nguôi, \q2 tôi cũng không chối bỏ lời của Đấng Thánh. \q1 \v 11 Nhưng tôi không còn sức chịu đựng. \q2 Tôi không còn gì để kéo dài cuộc sống. \q1 \v 12 Có phải tôi có sức của đá? \q2 Chẳng lẽ thân tôi được tạo bằng đồng? \q1 \v 13 Không, tôi hoàn toàn bất lực, \q2 không có cơ hội nào thành công. \b \q1 \v 14 Người tuyệt vọng cần bạn bè thương xót, \q2 nhưng anh lại buộc tội tôi không kính sợ Đấng Toàn Năng. \q1 \v 15 Anh em tôi ơi, anh thay đổi thất thường như dòng suối \q2 chảy tràn ngập bờ vào mùa xuân \q1 \v 16 khi nước dâng lên vì đá chảy và tuyết tan. \q1 \v 17 Nhưng khi mùa nắng hạn đến, nước sẽ không còn. \q2 Dưới sức nóng lòng khe thành khô cạn. \q1 \v 18 Đoàn bộ hành rẽ đường tìm nước, \q2 nhưng họ chết khát vì không còn gì để uống. \q1 \v 19 Khách bộ hành Thê-ma đi tìm nước; \q2 đoàn thương gia Sê-ba tràn đầy hy vọng. \q1 \v 20 Họ trông mong nhưng lại thất vọng. \q2 Khi đến nơi, niềm hy vọng liền tan biến. \q1 \v 21 Nay các anh cũng chẳng giúp gì tôi. \q2 Mới thấy điều kinh khủng đã sợ hại đến bản thân. \q1 \v 22 Nhưng tại sao? Có bao giờ tôi hỏi xin anh cung cấp nhu cầu? \q2 Tôi có cầu xin bất cứ điều gì của anh đâu? \q1 \v 23 Tôi có nhờ anh cứu tôi khỏi tay kẻ thù, \q2 hay chuộc tôi khỏi kẻ hà hiếp? \q1 \v 24 Hãy chỉ dạy, tôi sẽ im lặng lắng nghe, \q2 xin vạch ra những gì tôi đã làm sai. \q1 \v 25 Tôi vốn biết lời thành thật nhiều khi gây đau đớn, \q2 nhưng lời biện luận của anh chứng tỏ được gì? \q1 \v 26 Có phải anh chê trách lời tôi nói, \q2 và xem lời một người khốn khổ như gió thoảng ngoài tai? \q1 \v 27 Thật sự các anh như đã rút thăm chia chác với người mồ côi, \q2 còn nhẫn tâm bán đứng bạn bè. \q1 \v 28 Hãy nhìn tôi! \q2 Có lẽ nào tôi nói dối trước mặt anh? \q1 \v 29 Xin đừng cho rằng do tội của tôi, \q2 vì tôi không làm điều gì sai trái. \q1 \v 30 Anh nghĩ rằng tôi nói dối sao? \q2 Chẳng lẽ nào tôi không biết phân biệt điều sai trái?” \c 7 \q1 \v 1 “Có phải loài người phục dịch gian khổ? \q2 Đời sống chúng ta chẳng khác đời người làm thuê, \q1 \v 2 như người làm công ngóng chờ đêm tối, \q2 như đầy tớ trông đợi lãnh lương. \q1 \v 3 Tôi cũng vậy, chỉ được những tháng ngày vô nghĩa, \q2 những đêm dài mệt mỏi chán chường. \q1 \v 4 Nằm dài trên giường, tôi nghĩ: ‘Khi nào trời sẽ sáng?’ \q2 Nhưng đêm kéo dài mãi, và tôi trằn trọc đến hừng đông. \q1 \v 5 Thân tôi phủ đầy bọ giòi và đất bụi. \q2 Da tôi nứt nẻ, ung nhọt chảy mủ.” \s1 Gióp Kêu Khóc Cùng Đức Chúa Trời \q1 \v 6 “Ngày của con bay nhanh hơn thoi đưa. \q2 Rồi chấm dứt không một niềm hy vọng. \q1 \v 7 Lạy Đức Chúa Trời, xin nhớ đời con chỉ là hơi thở, \q2 và con sẽ không bao giờ còn thấy hạnh phúc nữa. \q1 \v 8 Chúa nhìn con bây giờ, nhưng sẽ không bao lâu nữa, \q2 Chúa tìm con, nhưng con sẽ không còn. \q1 \v 9 Như mây tan và tiêu mất thể nào, \q2 thì người chết cũng sẽ không trở lại. \q1 \v 10 Họ sẽ rời xa nhà mình mãi mãi— \q2 không bao giờ thấy lại. \b \q1 \v 11 Vì thế nên, con sẽ không nín lặng. \q2 Con sẽ kêu lên với cõi lòng đau đớn. \q2 Con sẽ than van trong cay đắng của linh hồn. \q1 \v 12 Có phải con là quái vật trong biển, \q2 mà đêm ngày Chúa đặt người giữ canh? \q1 \v 13 Con nghĩ: ‘Giường con sẽ an ủi con, \q2 và giấc ngủ sẽ giúp con vơi nhẹ nỗi thương đau,’ \q1 \v 14 nhưng khi Chúa làm tan vỡ giấc chiêm bao, \q2 và con kinh khiếp trong ác mộng. \q1 \v 15 Đến nỗi con thà bị nghẹt thở— \q2 còn hơn kéo lê kiếp sống này. \q1 \v 16 Con chán ghét cuộc sống con và không muốn sống nữa. \q2 Xin Chúa để mặc con vì những ngày hiện tại của con như hơi thở. \b \q1 \v 17 Loài người là chi mà Chúa xem quan trọng, \q2 có là gì đâu mà Chúa quá bận tâm? \q1 \v 18 Cứ mỗi sáng, Chúa đem tra vấn \q2 thử thách từng phút giây. \q1 \v 19 Tại sao Chúa không buông tha con, \q2 ít nhất đủ để con nuốt nước dãi! \q1 \v 20 Nếu con phạm tội, thì tội ấy đối với Chúa là gì, \q2 lạy Đấng Quan Phòng của loài người? \q1 Sao Chúa bắt con làm mục tiêu để bắn? \q2 Con là gánh nặng cho Chúa sao? \q1 \v 21 Tại sao Chúa không tha thứ tội con \q2 và bỏ qua gian ác của con? \q1 Vì con sắp nằm yên trong cát bụi. \q2 Khi Chúa tìm, con đã không còn.” \c 8 \s1 Binh-đát Đáp Lời Gióp Lần Thứ Nhất \p \v 1 Kế đến, Binh-đát, người Su-a, trả lời Gióp: \q1 \v 2 “Anh nói mãi những điều ấy cho đến khi nào? \q2 Tiếng của anh ào ào như gió. \q1 \v 3 Có khi nào Đức Chúa Trời bẻ cong công lý? \q2 Hay là Đấng Toàn Năng làm sai lệch điều ngay thẳng? \q1 \v 4 Con cái anh chắc đã phạm tội với Chúa, \q2 nên Ngài đã phó giao chúng cho án phạt của tội lỗi. \q1 \v 5 Nhưng nếu anh kêu cầu Đức Chúa Trời \q2 và tìm kiếm Đấng Toàn Năng, \q1 \v 6 nếu anh trong sạch và sống ngay lành, \q2 hẳn Chúa sẽ vực anh dậy và phục hồi gia đình của anh. \q1 \v 7 Dù mới đầu chẳng có bao nhiêu, \q2 nhưng về sau sẽ gia tăng gấp bội. \b \q1 \v 8 Hãy hỏi các thế hệ đi trước. \q2 Hãy suy ngẫm kinh nghiệm của bậc tổ tiên. \q1 \v 9 Vì chúng ta mới ra đời hôm qua nên chẳng biết chi. \q2 Ngày chúng ta sống trên đất như cái bóng. \q1 \v 10 Nhưng những người đến trước chúng ta sẽ dạy dỗ anh. \q2 Họ sẽ dạy anh những lời hiểu biết của họ. \b \q1 \v 11 Có thể nào cây cói giấy mọc nơi không đầm lầy? \q2 Chẳng lẽ cây sậy có thể phát triển không cần nước? \q1 \v 12 Trong khi chúng vẫn còn xanh tươi, chưa bị cắt bỏ, \q2 thì chúng bắt đầu héo khô nhanh hơn các loài cỏ. \q1 \v 13 Số phận người quên Đức Chúa Trời cũng thế, \q2 bao hy vọng của họ rồi cũng tiêu tan. \q1 \v 14 Những điều họ tin tưởng thật mong manh. \q2 Những điều họ tin cậy chỉ như mạng nhện. \q1 \v 15 Họ níu lấy nhà mình, nhưng nó không vững. \q2 Họ cố bám chặt, nhưng nó chẳng chịu nổi. \q1 \v 16 Người vô thần như cây xanh tốt trong nắng ấm, \q2 cành lá sum suê phủ cả vườn. \q1 \v 17 Rễ cây ăn sâu quanh đống đá; \q2 mọc chìa giữa đám sỏi. \q1 \v 18 Nhưng khi cây bị nhổ lên, \q2 nó bị xem như chưa bao giờ tồn tại, \q1 \v 19 Đó là luật chung của muôn loài, \q2 chết cây này, cây khác mọc lên. \b \q1 \v 20 Nhưng kìa, Đức Chúa Trời chẳng bỏ người ngay lành, \q2 và Ngài cũng không đưa tay giúp kẻ ác. \q1 \v 21 Chúa sẽ cho miệng anh đầy tiếng cười \q2 và môi anh tuôn tràn suối reo vui. \q1 \v 22 Những ai ghét anh sẽ hổ thẹn cúi đầu, \q2 và nhà của kẻ gian ác sẽ bị phá hủy.” \c 9 \s1 Lời Thứ Ba của Gióp: Đáp Lời Binh-đát \p \v 1 Bấy giờ Gióp trả lời: \q1 \v 2 “Phải, tôi biết mọi điều này là đúng. \q2 Nhưng có ai dám công bố vô tội trước mặt Đức Chúa Trời không? \q1 \v 3 Nếu có ai muốn tranh luận với Đức Chúa Trời, \q2 một nghìn câu chẳng đối đáp được một. \q1 \v 4 Vì Đức Chúa Trời khôn ngoan và mạnh mẽ vô cùng. \q2 Có ai từng thách thức Chúa mà được thành công chăng? \b \q1 \v 5 Chúa dời núi, núi không hay biết, \q2 cơn giận Ngài lật đổ núi non. \q1 \v 6 Chính tay Chúa làm rung chuyển đất, \q2 các trụ nền nó cũng lung lay. \q1 \v 7 Nếu Chúa ra lệnh, mặt trời sẽ không mọc \q2 và những vì sao chẳng dám hiện ra. \q1 \v 8 Chỉ một mình Chúa giăng trải các tầng trời \q2 và giẫm đạp trên từng cơn sóng biển. \q1 \v 9 Ngài tạo dựng tất cả vì sao—sao Bắc Đẩu và sao Thiên Lang, \q2 sao Thất Tinh và những chòm sao của phương nam. \q1 \v 10 Chúa làm những việc vĩ đại, không sao hiểu thấu. \q2 Ngài thực hiện những diệu kỳ, không sao đếm xuể. \b \q1 \v 11 Chúa đến gần, tôi không thể thấy. \q2 Khi Ngài đi qua, tôi cũng chẳng hay. \q1 \v 12 Nếu Chúa bắt ai phải chết, ai dám ngăn lại? \q2 Ai dám hỏi: ‘Chúa đang làm gì?’ \q1 \v 13 Vì Đức Chúa Trời không ngừng cơn thịnh nộ. \q2 Ngay cả kẻ cùng phe với Ra-háp cũng nằm rạp dưới chân Ngài. \b \q1 \v 14 Vậy tôi là ai mà dám đối đáp cùng Đức Chúa Trời \q2 hay tìm lời tranh luận cùng Ngài? \q1 \v 15 Nếu tôi đúng, tôi cũng không dám nói. \q2 Tôi chỉ có thể cầu xin Chúa xót thương. \q1 \v 16 Dù nếu tôi cầu xin và được Chúa đáp lời, \q2 tôi cũng không chắc Ngài chịu lắng nghe tôi. \q1 \v 17 Vì Ngài diệt tôi trong bão tố \q2 và gia tăng thương tích cho tôi vô cớ. \q1 \v 18 Ngài không cho tôi kịp lấy lại hơi thở, \q2 nhưng chồng chất lên tôi bao nỗi đắng cay. \q1 \v 19 Nếu hỏi về năng lực, Ngài là Đấng mạnh mẽ. \q2 Nếu nói về công lý, ai dám cáo kiện Ngài? \q1 \v 20 Dù tôi vô tội, chính miệng tôi sẽ lên án tôi có tội. \q2 Dù tôi có trọn lành, Chúa cũng sẽ chứng minh tôi gian ác. \b \q1 \v 21 Dù tôi vô tội, \q2 nhưng có gì khác cho tôi đâu— \q2 tôi khinh khi cuộc sống mình. \q1 \v 22 Người vô tội hay người gian ác, tất cả đều như nhau trước mặt Đức Chúa Trời. \q2 Thế cho nên tôi nói: ‘Ngài diệt người trọn lành cùng người gian ác,’ \q1 \v 23 Khi tai họa quét ngang, \q2 Chúa cười nhạo sự chết của người vô tội. \q1 \v 24 Khi đất nước rơi vào tay kẻ ác, \q2 Đức Chúa Trời che mắt quan tòa. \q2 Nếu không phải Chúa, còn ai làm được? \b \q1 \v 25 Ngày đời con qua mau hơn người chạy. \q2 Chúng trôi đi không thấy một niềm vui. \q1 \v 26 Nó lướt nhanh như thuyền nan, \q2 như đại bàng lao xuống con mồi. \q1 \v 27 Nếu con quyết định không than phiền trách móc, \q2 cố đổi mặt âu sầu nên vui vẻ, \q1 \v 28 con cũng phải nhận thêm nhiều đau khổ, \q2 vì con biết con sẽ không được kể là vô tội, lạy Đức Chúa Trời. \q1 \v 29 Con sẽ bị kết án. \q2 Còn nhọc công cố gắng làm gì? \q1 \v 30 Ngay cả nếu con tắm trong tuyết \q2 và rửa tay con bằng thuốc tẩy, \q1 \v 31 thì Chúa cũng dìm con xuống hố bùn, \q2 quần áo con cũng sẽ ghê tởm con. \b \q1 \v 32 Đức Chúa Trời đâu phải là loài người như con, \q2 nên con không thể tranh luận với Ngài hay đưa Ngài ra xét xử. \q1 \v 33 Ước gì có người trung gian giữa Chúa với con, \q2 là người có thể mang con gần với Chúa. \q1 \v 34 Người trung gian có thể can ngăn Đức Chúa Trời thôi đánh con, \q2 để con không còn khiếp sợ trước hình phạt của Ngài. \q1 \v 35 Bấy giờ con có thể thưa chuyện với Ngài không sợ sệt, \q2 nhưng bây giờ con không được như thế.” \c 10 \s1 Gióp Trình Bày Sự Cầu Xin Cùng Đức Chúa Trời \q1 \v 1 Tôi đã chán ghét cuộc đời tôi. \q2 Hãy cho tôi tự do than trách. \q2 Nói lời cay đắng tự trong tim. \q1 \v 2 Tôi sẽ thưa với Đức Chúa Trời: “Xin đừng lên án con— \q2 xin cho con biết Chúa buộc con tội gì? \q1 \v 3 Chúa có vui không khi Ngài đàn áp con? \q2 Sao Chúa từ bỏ con, là công trình của tay Chúa, \q2 trong khi Ngài mỉm cười trước mưu đồ kẻ ác? \q1 \v 4 Không lẽ Chúa nhìn bằng con mắt của loài người? \q2 Chúa cũng thấy như người phàm thấy sao? \q1 \v 5 Phải chăng đời Chúa chỉ dài bằng đời chúng con? \q2 Phải chăng cuộc sống Chúa quá ngắn \q1 \v 6 nên Ngài nhanh chóng truy tội ác con, \q2 và tìm kiếm tội lỗi con? \q1 \v 7 Cho dù Chúa biết con vô tội, \q2 không ai có thể giải thoát con khỏi tay Ngài. \b \q1 \v 8 Chúa đã nắn con với đôi tay Ngài; Chúa tạo ra con, \q2 mà bây giờ sao Ngài lại đang tâm hủy diệt con. \q1 \v 9 Xin Chúa nhớ rằng Ngài đã tạo con từ bụi đất— \q2 Chúa lại cho con trở về cát bụi sớm như vậy sao? \q1 \v 10 Chúa đã chỉ dẫn sự thai nghén con \q2 và tạo hình dạng con trong tử cung. \q1 \v 11 Chúa đã bọc con bằng da và thịt, \q2 và kết chặt con lại bằng xương và gân. \q1 \v 12 Chúa cho con mạng sống và tình thương của Ngài. \q2 Sự chăm sóc của Ngài gìn giữ đời sống con. \b \q1 \v 13 Tuy vậy, Chúa đã giấu những điều này trong lòng— \q2 con biết là dụng ý của Ngài— \q1 \v 14 là để trông chừng con, nếu con phạm tội, \q2 Chúa sẽ không tha thứ tội con. \q1 \v 15 Nếu con làm ác, thật khốn cho con; \q2 dù nếu con thiện lành, con cũng không dám ngước mặt, \q2 vì con thấy toàn nhục nhã và đớn đau. \q1 \v 16 Nếu con đứng lên, Chúa sẽ vồ con như sư tử \q2 và dùng sức mạnh Ngài trừ diệt con. \q1 \v 17 Một lần rồi một lần nữa, Chúa đưa bằng chứng chống lại con. \q2 Chúa gia tăng cơn giận đổ trên con \q2 và thêm quân hùng mạnh tấn công con. \b \q1 \v 18 Vậy sao Chúa để con lọt lòng mẹ? \q2 Sao không cho con chết lúc vừa sinh? \q1 \v 19 Được vậy con đã khỏi sống trên đời, \q2 từ lòng mẹ đi luôn xuống mộ phần. \q1 \v 20 Con chỉ còn vài ngày còn lại, xin để con yên, \q2 xin cho con được an thân chốc lát, \q1 \v 21 Trước khi con rời khỏi—không bao giờ trở lại— \q2 đến nơi tối tăm và vô cùng ảm đạm. \q1 \v 22 Đó là cõi mịt mù như nửa đêm, \q2 u ám và hỗn loạn, \q2 nơi đó ánh sáng chẳng khác gì bóng đêm.” \c 11 \s1 Sô-pha Đáp Lời Gióp Lần Thứ Nhất \p \v 1 Sô-pha, người Na-a-ma đáp lời Gióp: \q1 \v 2 “Phải chăng những lời này không ai dám đối đáp? \q2 Phải chăng người lắm lời này có lý? \q1 \v 3 Tôi có thể giữ im lặng trong khi anh khoa trương sao? \q2 Khi anh chế nhạo Đức Chúa Trời, không ai dám quở anh sao? \q1 \v 4 Anh nói: ‘Niềm tin của con hoàn hảo,’ \q2 và ‘Con trong sạch trước mặt Đức Chúa Trời.’ \q1 \v 5 Nếu Đức Chúa Trời phán dạy; \q2 nếu Chúa nói với anh điều Ngài nghĩ suy! \q1 \v 6 Nếu Chúa tỏ anh biết bí mật của sự khôn ngoan, \q2 vì sự khôn ngoan thật không phải là chuyện đơn giản. \q1 Hãy nhớ! Vì độ lượng nhân từ, \q2 tội anh nặng, Đức Chúa Trời đã hình phạt nhẹ. \b \q1 \v 7 Làm sao anh có thể hiểu thấu sự huyền nhiệm của Đức Chúa Trời? \q2 Và khám phá giới hạn của Đấng Toàn Năng? \q1 \v 8 Sự hiểu biết ấy cao hơn các tầng trời— \q2 anh nghĩ anh là ai? \q1 Những điều ấy sâu hơn âm phủ— \q2 anh biết được gì? \q1 \v 9 Những điều ấy dài rộng hơn mặt đất, \q2 và mênh mông hơn đại dương. \q1 \v 10 Nếu Đức Chúa Trời đến và bắt người ta cầm tù \q2 hay lập tòa xét xử, ai có thể cản ngăn Ngài? \q1 \v 11 Vì Chúa biết những người giả dối, \q2 Ngài ghi xuống tất cả tội lỗi chúng. \q1 \v 12 Chừng nào lừa hoang sinh ra con là người, \q2 Thì kẻ u mê mới nên thông sáng. \b \q1 \v 13 Nếu anh dọn lòng trong sạch \q2 và đưa tay hướng về Chúa kêu cầu! \q1 \v 14 Nếu anh lìa xa tội lỗi, \q2 không chứa chấp gian tham. \q1 \v 15 Anh sẽ ngẩng mặt lên, không hổ thẹn. \q2 Sống vững vàng, không sợ hãi lo âu. \q1 \v 16 Anh sẽ quên đi thời khổ nạn; \q2 như dòng nước đã chảy xa. \q1 \v 17 Đời anh sẽ rực rỡ như ban ngày. \q2 Ngay cả tăm tối cũng sẽ sáng như bình minh. \q1 \v 18 Anh sẽ tin tưởng và hy vọng. \q2 Sống thảnh thơi và ngơi nghỉ an bình. \q1 \v 19 Anh sẽ nằm yên không kinh hãi, \q2 và nhiều người đến xin anh giúp đỡ. \q1 \v 20 Nhưng người ác sẽ bị mù lòa. \q2 Chúng sẽ không thấy lối thoát thân. \q2 Chỉ hy vọng thử hơi cuối cùng.” \c 12 \s1 Lời Thứ Tư của Gióp: Đáp Lời Sô-pha \p \v 1 Rồi Gióp đáp lời: \q1 \v 2 “Anh cho rằng mình biết mọi thứ, có phải không? \q2 Và khi anh chết, sự khôn ngoan sẽ chết theo anh! \q1 \v 3 Nhưng tôi cũng biết như các anh— \q2 thật, anh chẳng có gì hơn tôi. \q2 Ai lại không biết những điều anh vừa nói? \q1 \v 4 Bạn bè của tôi nhạo cười tôi, \q2 vì tôi kêu cầu Đức Chúa Trời và được Ngài đáp trả. \q1 Tôi là người công chính và không gì chê trách, \q2 nên họ cười chê tôi. \q1 \v 5 Người nhàn hạ chế giễu người bạc phước, \q2 khinh bỉ kẻ lỡ bước sa cơ. \q1 \v 6 Còn kẻ trộm cướp được hưng thịnh, \q2 và người chọc giận Đức Chúa Trời sống an vui— \q2 lại được Đức Chúa Trời gìn giữ trong tay Ngài. \b \q1 \v 7 Hãy hỏi loài thú, và chúng sẽ dạy anh. \q2 Hỏi loài chim, và chim sẽ trả lời. \q1 \v 8 Hãy hỏi đất, và đất sẽ hướng dẫn. \q2 Hãy để loài cá trong đại dương nói với anh. \q1 \v 9 Vì tất cả chúng đều biết rằng \q2 thảm họa của tôi đến từ tay Chúa Hằng Hữu. \q1 \v 10 Vì hồn mọi sinh vật trong tay Chúa, \q2 và cả hơi thở của con người. \q1 \v 11 Tai biết phân biệt lời nói \q2 như miệng biết nếm thức ăn ngon. \q1 \v 12 Già cả thêm khôn ngoan, \q2 và sống lâu thêm hiểu biết. \b \q1 \v 13 Nhưng khôn ngoan thật và sức mạnh thuộc về Đức Chúa Trời; \q2 Chúa biết mọi người và hiểu thấu. \q1 \v 14 Chúa đã phá hủy thì không ai xây lại được. \q2 Khi Ngài bắt giữ, chẳng ai thoát thân. \q1 \v 15 Nếu Chúa cầm giữ mưa, đất đai liền khô hạn. \q2 Nếu Ngài trút đổ mưa, lũ lụt tràn khắp đất. \q1 \v 16 Phải, sức mạnh và sự khôn ngoan thuộc về Chúa; \q2 Chúa nắm gọn trong tay kẻ lừa gạt lẫn người bị lừa. \q1 \v 17 Chúa khiến các mưu sĩ đi chân đất; \q2 các phán quan ra ngu dại. \q1 \v 18 Chúa tháo bỏ áo bào của các vua. \q2 Họ bị dẫn đi với dây buộc nơi lưng. \q1 \v 19 Chúa dẫn các thầy tế lễ đi khỏi, tước mọi địa vị; \q2 Ngài lật đổ kẻ đã cầm quyền lâu năm. \q1 \v 20 Chúa khiến kẻ cố vấn đáng tin cậy im lặng, \q2 và lấy đi trí phán đoán của các trưởng lão. \q1 \v 21 Chúa giáng điều sỉ nhục trên người cao sang quý tộc, \q2 và tước đoạt sức mạnh của kẻ nắm quyền hành. \b \q1 \v 22 Chúa đem việc tối tăm ra ánh sáng; \q2 Ngài chiếu rạng cả bóng tử vong. \q1 \v 23 Chúa gây dựng các dân tộc, rồi Ngài hủy diệt họ. \q2 Chúa mở rộng bờ cõi, rồi Ngài từ bỏ chúng. \q1 \v 24 Chúa tước đoạt sự hiểu biết của các vua \q2 cho họ lạc lõng bơ vơ trong hoang vu không lối. \q1 \v 25 Họ quờ quạng trong bóng tối không ánh sáng. \q2 Chúa khiến họ lảo đảo như người say.” \c 13 \s1 Gióp Muốn Trình Bày Cùng Đức Chúa Trời \q1 \v 1 “Này, mắt tôi đã thấy mọi điều ấy \q2 tai đã nghe, và trí hiểu rõ ràng. \q1 \v 2 Tôi cũng hiểu biết như các anh. \q2 Các anh cũng chẳng có gì hơn tôi. \q1 \v 3 Nhưng tôi muốn trình lên Đấng Toàn Năng. \q2 Tôi muốn trình bày duyên cớ mình lên Đức Chúa Trời. \q1 \v 4 Các anh bôi nhọ tôi với những lời giả dối. \q2 Như hạng lang băm, các anh đều vô dụng. \q1 \v 5 Ước gì các anh giữ im lặng! \q2 Để tỏ mình còn đôi chút khôn ngoan. \q1 \v 6 Xin các anh lắng nghe lời tôi biện luận; \q2 xin chú ý nghe lời tôi bào chữa. \b \q1 \v 7 Các anh dám nhân danh Đức Chúa Trời nói lời giả dối sao? \q2 Hay thay Chúa nói lời dối trá? \q1 \v 8 Phải chăng các anh định chứng tỏ Chúa thiên vị? \q2 Hay cố công để bào chữa cho Ngài? \q1 \v 9 Nếu Chúa dò xét các anh, liệu các anh có đứng vững hay không? \q2 Gạt được người, nhưng sao gạt được Chúa? \q1 \v 10 Chắc chắn Ngài sẽ quở trách các anh \q2 nếu các anh thiên vị Ngài, dù ngấm ngầm bí mật. \q1 \v 11 Không lẻ uy nghiêm Ngài, không làm các anh khiếp sợ? \q2 Quyền năng Ngài không làm các anh kinh hoàng? \q1 \v 12 Châm ngôn các anh vô dụng như tro bụi. \q2 Lập luận của các anh chỉ như đất sét. \b \q1 \v 13 Xin hãy im lặng và để cho tôi yên. \q2 Hãy để tôi nói, và tôi sẽ bày tỏ nỗi niềm. \q1 \v 14 Phải, tôi sẽ đặt mạng sống trong tay mình, \q2 và nói ra mọi điều tôi suy nghĩ. \q1 \v 15 Dù Đức Chúa Trời giết tôi, tôi vẫn hy vọng nơi Ngài. \q2 Trước mặt Ngài vẫn trình dâng lý lẽ. \q1 \v 16 Nhưng đây là điều sẽ cứu tôi—tôi không phải là kẻ vô đạo. \q2 Nếu không, tôi không thể đứng trước Chúa. \b \q1 \v 17 Xin lắng nghe những lời tôi sắp nói. \q2 Xin cho tư tưởng này lọt vào tai. \q1 \v 18 Tôi đã chuẩn bị trường hợp mình; \q2 tôi sẽ chứng minh sự vô tội. \q1 \v 19 Ai có thể tranh luận cùng tôi? \q2 Nếu anh chứng minh tôi sai, thì tôi sẽ cam tâm chịu chết.” \s1 Gióp Hỏi Mình Phạm Tội Thế Nào \q1 \v 20 “Lạy Đức Chúa Trời cho con xin hai điều, \q2 thì con sẽ không tránh mặt Ngài. \q1 \v 21 Xin Chúa rút tay khỏi con, \q2 và đừng gieo kinh hãi triền miên trên con. \q1 \v 22 Bấy giờ Chúa gọi, con xin thưa! \q2 Khi con lên tiếng, xin Chúa trả lời. \q1 \v 23 Xin nói với con, con đã làm gì sai trái? \q2 Xin cho con biết vi phạm con và tội lỗi con. \q1 \v 24 Sao Chúa quay mặt khỏi con? \q2 Sao Chúa coi con như thù nghịch của Ngài? \q1 \v 25 Chúa sẽ dày vò một chiếc lá đã bị gió vùi dập sao? \q2 Chúa vẫn còn đuổi theo cọng rơm khô sao? \b \q1 \v 26 Chúa đã viết cáo trạng buộc tội con bằng lời cay đắng. \q2 Bắt con hứng chịu hậu quả con phạm từ thuở thanh xuân. \q1 \v 27 Chúa cũng đặt chân con vào xiềng. \q2 Theo dõi mỗi bước đường con đi. \q2 Và ghi dấu trên gót chân con. \q1 \v 28 Con bị tiêu hao như gỗ mục, \q2 như chiếc áo bị sâu mọt cắn nát.” \c 14 \q1 \v 1 “Con người thật yếu đuối mong manh! \q2 Đời sống thật ngắn ngủi, nhưng đầy phiền muộn! \q1 \v 2 Chúng con như hoa sớm nở tối tàn. \q2 Như bóng câu vụt qua, chúng con vội vàng khuất bóng. \q1 \v 3 Chúa cần gì phải theo dõi gắt gao, \q2 và rồi đưa con ra xét xử? \q1 \v 4 Ai có thể đem điều trong sạch ra từ người ô uế? \q2 Không một người nào! \q1 \v 5 Chúa đã an bài số ngày của đời sống chúng con. \q2 Chúa biết rõ chúng con sống bao nhiêu tháng, \q2 và giới hạn không thể vượt qua. \q1 \v 6 Xin Chúa ngoảnh mặt để chúng con yên thân! \q2 Chúng con như người làm thuê, được nghỉ ngơi sau ngày làm việc. \b \q1 \v 7 Ngay cả cây cũng còn hy vọng! \q2 Nếu bị đốn xuống, nó vẫn mọc lại \q2 và nứt ra nhiều cành lá xanh tươi. \q1 \v 8 Dù rễ nó già cỗi trong đất \q2 và gốc thối rữa mụt nát, \q1 \v 9 vừa có hơi nước, nó sẽ nẩy chồi \q2 và cây liền nứt đọt như hạt giống mới. \b \q1 \v 10 Nhưng khi người chết, sức họ liền tan biến. \q2 Tắt hơi rồi người đến nơi đâu? \q1 \v 11 Như nước bốc hơi khỏi hồ, \q2 như sông cạn khô nứt nẻ, \q1 \v 12 con người nằm xuống và không trổi dậy nữa. \q1 Cho dù bầu trời cao tan biến, họ cũng sẽ không dậy, \q2 không gì đánh thức họ giữa giấc ngủ triền miên. \b \q1 \v 13 Ước gì Chúa đem con giấu nơi âm phủ, \q2 và quên hẳn con cho đến khi cơn giận Ngài nguôi. \q2 Nhưng đến kỳ định, xin Ngài nhớ lại con! \q1 \v 14 Người chết đi có thể sống lại chăng? \q2 Trọn những ngày lao khổ của đời con, \q2 con sẽ đợi cho đến kỳ giải thoát. \q1 \v 15 Bấy giờ Chúa gọi, con sẽ lên tiếng đáp lời, \q2 Chúa nhớ mong con, tạo vật của tay Chúa. \q1 \v 16 Bấy giờ Chúa sẽ canh giữ bước chân con, \q2 thay vì canh chừng tội lỗi con. \q1 \v 17 Tội lỗi con phạm sẽ được niêm phong trong túi, \q2 và Ngài sẽ che đậy gian ác của con. \b \q1 \v 18 Nhưng, như núi lở tan tành từng mảnh, \q2 như đá lăn ra muôn phía, \q1 \v 19 như nước chảy đá mòn, \q2 như thác lũ cuốn trôi bùn đất, \q2 vì Chúa phá tan hy vọng của con người. \q1 \v 20 Chúa đè bẹp con người, rồi người phải qua đi. \q2 Chúa thay sắc diện người và đuổi người đi khuất. \q1 \v 21 Họ không bao giờ biết con cháu\f + \fr 14:21 \fr*\ft Nt con trai\ft*\f* họ sẽ được tôn trọng \q2 hay thất bại ê chề, \q2 Nào ai biết được. \q1 \v 22 Họ chỉ biết thân mình đau đớn; \q2 đời sống họ đầy dẫy khổ đau.” \c 15 \s1 Ê-li-pha Đáp Lời Gióp Lần Thứ Hai \p \v 1 Rồi Ê-li-pha, người xứ Thê-man đáp: \q1 \v 2 “Người khôn ngoan không đối đáp vu vơ! \q2 Anh chẳng có gì ngoài ba hoa rỗng tuếch. \q1 \v 3 Người khôn không lập luận vô bổ. \q2 Lời anh bào chữa chẳng ra gì. \q1 \v 4 Lẽ nào anh không sợ Đức Chúa Trời, \q2 không kính trọng Ngài? \q1 \v 5 Tội lỗi anh dạy miệng anh nói. \q2 Anh chọn lời của kẻ xảo quyệt điêu ngoa. \q1 \v 6 Miệng anh lên án anh, không phải tôi. \q2 Môi anh tự tố cáo chống lại anh. \b \q1 \v 7 Phải chăng anh là người sinh ra đầu tiên? \q2 Lẽ nào anh sinh trước khi đồi núi hình thành? \q1 \v 8 Có phải anh nghe được cuộc luận bàn của Đức Chúa Trời? \q2 Và một mình riêng anh thu tóm hết khôn ngoan? \q1 \v 9 Có gì anh biết mà chúng tôi không rõ? \q2 Có gì anh hiểu, chúng tôi lại u mê? \q1 \v 10 Giữa chúng ta có người cao tuổi, có người tóc bạc, \q2 cao tuổi hơn cả cha anh! \b \q1 \v 11 Lời an ủi của Đức Chúa Trời quá ít cho anh sao? \q2 Có lẽ nào lời dịu dàng của Chúa không đủ? \q1 \v 12 Vì sao lòng anh bấn loạn? \q2 Và mắt anh long sòng sọc \q1 \v 13 đến nỗi anh chống lại Đức Chúa Trời \q2 và nói lên những lời gian ác? \q1 \v 14 Có thể nào loài người được kể là thanh sạch? \q2 Lẽ nào người sinh ra từ người nữ được xem là công chính? \q1 \v 15 Này! Đức Chúa Trời không tin cậy dù là thiên sứ. \q2 Ngay cả bầu trời cũng dơ bẩn dưới mắt Ngài. \q1 \v 16 Huống chi con người thối nát và tội lỗi \q2 uống gian ác mình như nước lã! \b \q1 \v 17 Nếu anh có nghe thì tôi mới trình bày. \q2 Tôi sẽ trả lời anh từ kinh nghiệm bản thân. \q1 \v 18 Cũng là điều các hiền triết đã xác nhận \q2 và tổ tiên họ cũng đã lưu truyền\f + \fr 15:18 \fr*\ft Nt không giấu đi với các bậc tổ tiên \ft*\f* \q1 \v 19 từ những người được ban cho đất \q2 trước khi có dân ngoại đến. \b \q1 \v 20 Vì kẻ gian ác suốt đời luôn sầu khổ. \q2 Tuổi càng cao càng chồng chất đớn đau. \q1 \v 21 Tai thường nghe những tiếng dữ dằn, \q2 dù đang yên bình, cũng sợ kẻ hủy diệt tấn công. \q1 \v 22 Chúng không dám đi vào nơi tăm tối \q2 vì sợ hãi mình sẽ bị giết hại. \q1 \v 23 Chúng chạy lang thang và nói: ‘Tôi tìm bánh ở đâu?’ \q2 Chúng biết những ngày hủy diệt gần kề. \q1 \v 24 Ngày đen tối làm chúng hoảng kinh. \q2 Chúng sống trong đau sầu và khổ não, \q2 như vị vua bị bao vây nơi trận mạc. \q1 \v 25 Vì chúng đã đưa tay ra chống Đức Chúa Trời, \q2 cả gan khinh dể Đấng Toàn Năng, \q1 \v 26 Nắm chặt chiếc khiên cứng cáp, \q2 chúng ương ngạnh chống lại Ngài. \b \q1 \v 27 Che phủ mặt mình bằng lớp mỡ; \q2 bọc hông mình với tấm mỡ phồng căng. \q1 \v 28 Nhưng thành chúng sẽ bị đổ nát. \q2 Chúng sống trong nhà bỏ hoang \q2 chỉ chờ đến ngày sẽ đổ sập. \q1 \v 29 Dù có của, cũng không bền giữ, \q2 chẳng bao giờ hưởng cảnh giàu sang. \q2 Tài sản dồn chứa, phút chốc tiêu tan. \b \q1 \v 30 Chúng sẽ chẳng hề thoát được cảnh tối tăm. \q2 Sức nóng mặt trời sẽ cháy khô bao chồi lộc, \q2 và hơi thở của Đức Chúa Trời sẽ tiêu diệt chúng. \q1 \v 31 Đừng lừa dối mình bằng sự tin cậy vào điều hư ảo, \q2 vì điều hư ảo sẽ là phần thưởng của chúng. \q1 \v 32 Như cây sẽ bị đốn xuống trước kỳ hạn; \q2 cành lá sẽ không bao giờ xanh tốt. \q1 \v 33 Chúng sẽ như cây nho rụng trái non, \q2 như cây ô-liu không đơm hoa kết trái. \q1 \v 34 Vì kẻ vô đạo không có hậu tự. \q2 Nhà của kẻ giàu nhờ hối lộ, sẽ bị thiêu đốt. \q1 \v 35 Chúng cưu mang tội ác và sinh điều tàn bạo, \q2 Lòng dạ chúng bày kế gian tà.” \c 16 \s1 Lời Thứ Năm của Gióp: Đáp Lời Ê-li-pha \p \v 1 Gióp đáp rằng: \q1 \v 2 “Tôi đã nghe những lời này trước đó. \q2 Các anh an ủi chỉ gây thêm phiền não! \q1 \v 3 Lời vô bổ đến chừng nào mới dứt? \q2 Động lực nào thúc đẩy lời nói dai? \q1 \v 4 Tôi cũng nói như vậy nếu các anh ở trong hoàn cảnh của tôi. \q2 Tôi cũng có thể trách móc thậm tệ và lắc đầu ngao ngán. \q1 \v 5 Nhưng nếu là tôi, tôi sẽ nói lời khích lệ các anh. \q2 Tôi sẽ cố gắng xoa dịu nỗi thương đau của các anh. \q1 \v 6 Dù lên tiếng, khổ đau tôi nào thuyên giảm, \q2 nếu nín thinh cũng chẳng bớt sầu cay. \b \q1 \v 7 Nhưng tay Đức Chúa Trời khiến thân tôi mòn mỏi, \q2 gia đình tôi, Chúa hủy phá tan tành. \q1 \v 8 Để chứng tỏ tôi có tội, Chúa làm da tôi nhăn, thân tôi gầy. \q2 Thân xác gầy còm của tôi làm chứng chống lại tôi. \q1 \v 9 Đức Chúa Trời ghét tôi và giận dữ xé tôi từng phần. \q2 Ngài nghiến răng nghịch tôi, \q2 và quắc mắt nhìn tôi. \q1 \v 10 Người ta chế giễu và cười nhạo tôi. \q2 Họ tát vào má tôi. \q2 Rồi họp nhau đồng loạt tấn công tôi. \q1 \v 11 Đức Chúa Trời giải nạp tôi cho người tội lỗi. \q2 Ngài ném tôi vào tay kẻ gian ác xấu xa. \b \q1 \v 12 Tôi đang yên vui bỗng bị Ngài vùi dập, \q2 Ngài nắm lấy cổ và bẻ tôi ra từng mảnh. \q1 Rồi dựng tôi làm bia chắn đỡ, \q2 \v 13 các xạ thủ Ngài vây quanh tôi. \q1 Mũi tên Ngài bắn thủng tôi không thương xót. \q2 Trên đất ướt đẫm mật tôi. \q1 \v 14 Chúa liên tiếp gây bao thương tích, \q2 như một dũng sĩ xông đánh tôi. \q1 \v 15 Tôi mặc áo vải gai để tỏ bày sầu khổ. \q2 Và chôn vùi sức mạnh trong bụi đất. \q1 \v 16 Mắt tôi đỏ bừng vì khóc lóc; \q2 bóng sự chết đã hiện trên mí mắt tôi, \q1 \v 17 Dù tôi không làm điều gì sai trái, \q2 và lời cầu nguyện tôi thật trong sạch. \b \q1 \v 18 Hỡi đất, đừng che lấp máu tôi. \q2 Đừng ngăn chặn tiếng tôi kêu than. \q1 \v 19 Dù bây giờ Đấng làm chứng cho tôi ở trên trời. \q2 Đấng biện hộ của tôi ở trên nơi chí cao. \q1 \v 20 Khi bạn bè thân yêu chế nhạo tôi, \q2 nước mắt tôi tuôn đổ trước mặt Đức Chúa Trời. \q1 \v 21 Tôi cần một người biện hộ giữa Đức Chúa Trời và tôi, \q2 như con người vẫn biện hộ cho bạn thân. \q1 \v 22 Vì chẳng bao lâu tôi sẽ đi con đường, \q2 đến nơi mà tôi sẽ không bao giờ trở lại.” \c 17 \s1 Gióp Tiếp Tục Khẳng Định Mình Vô Tội \q1 \v 1 “Tâm hồn con tan vỡ, \q2 và cuộc đời con ngắn lại. \q2 Huyệt mộ đón chờ con. \q1 \v 2 Con bị bọn người vây quanh chế giễu. \q2 Mắt con luôn thấy họ khiêu khích con. \b \q1 \v 3 Xin Chúa bào chữa cho sự vô tội của con, ôi Đức Chúa Trời, \q2 vì ngoài Chúa còn ai bảo vệ con. \q1 \v 4 Chúa khiến tâm trí họ tối tăm, \q2 nên họ không thể nào vượt thắng. \q1 \v 5 Ai phủ nhận bạn bè để được thưởng, \q2 mắt con cái người ấy sẽ mù lòa. \b \q1 \v 6 Đức Chúa Trời khiến tôi bị đàm tiếu giữa mọi người; \q2 Họ phỉ nhổ vào mặt tôi. \q1 \v 7 Hai mắt tôi làn vì đau buồn, \q2 tay chân tôi rã rời như chiếc bóng. \q1 \v 8 Người ngay thẳng sẽ ngạc nhiên nhìn tôi. \q2 Còn người vô tội sẽ chống lại kẻ vô đạo. \q1 \v 9 Người công chính giữ vững đường lối mình, \q2 người có bàn tay trong sạch ngày càng mạnh mẽ. \b \q1 \v 10 Tôi mời các bạn lại đây biện luận một lần nữa, \q2 vì các bạn đây\f + \fr 17:10 \fr*\ft Nt trong các anh\ft*\f* chẳng ai khôn sáng. \q1 \v 11 Đời tôi đã qua. \q2 Hy vọng đã mất. \q2 Ước vọng lòng tôi cũng tiêu tan. \q1 \v 12 Những người này bảo đêm là ngày; \q2 họ cho rằng bóng đêm là ánh sáng. \q1 \v 13 Nếu tôi chờ đợi, âm phủ sẽ là nhà tôi ở, \q2 tôi trải giường ra trong bóng tối thì sao? \q1 \v 14 Nếu tôi gọi mộ địa là cha tôi, \q2 và gọi giòi bọ là mẹ hay là chị tôi thì thế nào? \q1 \v 15 Nào còn hy vọng gì cho tôi? \q2 Có ai tìm được cho tôi niềm hy vọng? \q1 \v 16 Không, hy vọng tôi sẽ theo tôi vào âm phủ. \q2 Và cùng tôi trở về cát bụi!” \c 18 \s1 Lời Đáp Thứ Hai của Binh-đát \p \v 1 Binh-đát, người Su-a, đáp: \q1 \v 2 “Anh cứ luận điệu này cho đến bao giờ? \q2 Hãy bình tâm để cùng nhau trò chuyện. \q1 \v 3 Sao chúng tôi bị kể vào hàng thú vật? \q2 Sao anh coi chúng tôi là kẻ dại khờ? \q1 \v 4 Anh tự xé nát thân mình trong cơn giận, \q2 không lẽ vì anh mà mặt đất thành hoang vắng? \q2 Lẽ nào tảng đá phải dời đi nơi khác? \b \q1 \v 5 Vâng, ánh sáng kẻ gian ác sẽ bị dập tắt. \q2 Tia lửa của nó không còn chiếu rạng. \q1 \v 6 Ánh sáng trong trại nó sẽ tối om. \q2 Ngọn đèn sẽ vụt tắt trên đầu nó. \q1 \v 7 Bước chân mạnh mẽ của kẻ ác sẽ yếu đi. \q2 Mưu kế nó sẽ làm nó sụp đổ. \q1 \v 8 Nó bị chân mình đưa\f + \fr 18:8 \fr*\ft Nt ném\ft*\f* vào lưới rập. \q2 Dẫn nó bước ngay vào cạm bẫy \q1 \v 9 Gót chân nó bị mắc vào tròng. \q2 Bị thòng lọng thắt chặt hết phương vùng vẫy. \q1 \v 10 Vòng dây chờ sẵn trên mặt đất. \q2 Hầm chông gài sẵn trên đường nó đi. \b \q1 \v 11 Nỗi khủng khiếp vây bọc nó tư bề \q2 và bám đuổi theo gót chân nó. \q1 \v 12 Vì cơn đói, nó suy tàn sức lực, \q2 tai họa đang chờ chực nó thường xuyên. \q1 \v 13 Từng mảng da tai họa tàn phá; \q2 con trưởng của tử thần ăn nuốt toàn thân. \q1 \v 14 Nó bị đuổi ra ngoài lều trại \q2 và bị áp giải đến trước vua của những kinh hoàng. \q1 \v 15 Nó sẽ bị giam giữ trong căn nhà xa lạ; \q2 còn nhà nó bị trận mưa diêm sinh thiêu hủy. \q1 \v 16 Rễ của nó sẽ bị khô cằn, \q2 và các cành của nó sẽ héo tàn. \q1 \v 17 Kỷ niệm nó bị xóa nhòa trên đất, \q2 ngoài phố phường chẳng ai nhắc đến tên. \q1 \v 18 Nó bị đuổi từ vùng ánh sáng vào bóng tối, \q2 bị trục xuất ra khỏi trần gian. \q1 \v 19 Nó chẳng còn con cháu, \q2 không một ai sống sót nơi quê hương nó sống. \q1 \v 20 Người phương tây kinh ngạc về số phận của nó; \q2 người phương đông khiếp đảm. \q1 \v 21 Nó sẽ nói: ‘Đây là nơi ở của kẻ ác, \q2 là nơi của những kẻ không nhận biết Đức Chúa Trời.’” \c 19 \s1 Lời Thứ Sáu của Gióp: Đáp Lời Binh-đát \p \v 1 Gióp đáp: \q1 \v 2 “Các anh dày vò tôi cho đến bao giờ? \q2 Các anh dùng lời nói chà nát tôi đến khi nào? \q1 \v 3 Đã mười lần các anh sỉ nhục tôi. \q2 Các anh chẳng hổ thẹn khi công kích tôi vô cớ sao? \q1 \v 4 Dù thật tôi có tội, \q2 đó là lỗi của tôi không phải của anh. \q1 \v 5 Các anh nghĩ các anh hơn tôi, \q2 dùng sự bẻ mặt tôi làm bằng chứng của tội lỗi tôi. \q1 \v 6 Xin biết rằng chính Đức Chúa Trời đánh hạ tôi, \q2 và bủa lưới Ngài vây tôi tứ phía. \b \q1 \v 7 Tôi kêu khóc: ‘Cứu tôi!’ nhưng chẳng ai thèm đáp. \q2 Tôi kêu oan, nhưng không thấy công lý. \q1 \v 8 Đức Chúa Trời dựng rào ngăn chặn tôi tiến bước. \q2 Phủ tối tăm khiến đường tôi mù mịt. \q1 \v 9 Vinh quang tôi, Chúa tước đoạt, \q2 và mão miện tôi, Chúa cất khỏi đầu. \q1 \v 10 Chúa nghiền tôi tứ phía, làm tôi ra điêu tàn. \q2 Chúa cất niềm hy vọng tôi như nhổ cây trốc gốc. \q1 \v 11 Lửa thịnh nộ Chúa bùng cháy; \q2 Ngài coi tôi như kẻ nghịch thù. \q1 \v 12 Đại binh Chúa ùn ùn kéo tới. \q2 Mở đường khai lối tấn công tôi, \q2 Vây hãm lều tôi đang trú ẩn. \b \q1 \v 13 Do Chúa khiến, anh em đều xa lánh, \q2 người quen tôi, nay đều ngoảnh mặt. \q1 \v 14 Gia đình tôi bỏ rơi không thèm ngó, \q2 còn bạn thân cũng đã lãng quên tôi. \q1 \v 15 Đầy tớ nam lẫn nữ kể tôi là khách lạ. \q2 Coi tôi như ngoại kiều. \q1 \v 16 Tôi gọi đầy tớ mình, nó không đến; \q2 tôi đành mở miệng van nài nó! \q1 \v 17 Hơi thở tôi, vợ tôi không chịu nổi. \q2 Anh em một mẹ cũng kinh tởm tôi! \q1 \v 18 Cả bọn trẻ con cũng khinh tôi. \q2 Chúng quay lưng, khi tôi xuất hiện. \q1 \v 19 Các bạn thân đều gớm ghiếc tôi, \q2 Những người tôi yêu đều trở mặt chống lại tôi. \q1 \v 20 Thân thể tôi chỉ còn da bọc xương, \q2 tôi thoát chết với hai bàn tay trắng. \b \q1 \v 21 Hãy thương xót tôi, các bạn ơi, xin thương xót, \q2 vì tay Đức Chúa Trời đã đánh tôi. \q1 \v 22 Sao các anh săn đuổi tôi như Đức Chúa Trời? \q2 Các anh chưa chán thịt tôi sao? \q1 \v 23 Ôi, ước gì các lời tôi được ghi lại \q2 Ôi, ước gì nó được khắc vào bia đá, \q1 \v 24 được chạm với bút bằng sắt, bằng chì, \q2 được khắc vào đá đời đời. \q1 \v 25 Vì tôi biết Đấng Cứu Chuộc tôi vẫn sống, \q2 đến ngày cuối cùng, Ngài sẽ đặt chân trên đất. \q1 \v 26 Mặc dù thân thể tôi rữa nát, \q2 nhưng bên trong thể xác này, tôi sẽ thấy Đức Chúa Trời! \q1 \v 27 Chính tôi sẽ thấy Ngài. \q2 Phải, chính mắt tôi nhìn ngắm Ngài. \q2 Lòng tôi mong chờ đến mỏi mòn! \b \q1 \v 28 Sao các anh dám hành hạ tôi, \q2 rồi nói rằng: ‘Đó là do lỗi của chính hắn’? \q1 \v 29 Các anh hãy coi chừng lưỡi gươm, \q2 vì cơn giận các anh sẽ đưa đến trừng phạt. \q2 Lúc ấy các anh sẽ biết rằng đã đến ngày phán xét.” \c 20 \s1 Sô-pha Đáp Lời Gióp Lần Thứ Hai \p \v 1 Sô-pha, người Na-a-ma, đáp: \q1 \v 2 “Tôi phải trả lời \q2 vì tôi rất bối rối. \q1 \v 3 Tôi đã nghe lời trách móc sỉ nhục tôi, \q2 nhưng sự hiểu biết đã giục tôi đáp lại. \b \q1 \v 4 Anh có biết: Từ thuở khai thiên lập địa \q2 khi loài người mới có mặt trên thế gian, \q1 \v 5 kẻ ác dù có hân hoan chỉ tạm thời, \q2 và niềm vui của kẻ vô đạo sớm tàn tắt? \q1 \v 6 Dù kiêu hãnh của nó lên đến tận trời \q2 đầu chạm tới các tầng mây, \q1 \v 7 nó cũng sẽ bị tiêu diệt đời đời, \q2 bị ném đi giống như phân của nó. \q1 Ai từng quen biết nó sẽ hỏi: \q2 ‘Nó ở đâu?’ \q1 \v 8 Nó tiêu tan như giấc mơ. \q2 Bị xóa đi như cơn mộng ban đêm. \q1 \v 9 Vừa thấy đó, nó liền mất hút. \q2 Chốn quê hương chẳng biết nó là ai. \q1 \v 10 Con cái nó sẽ xin ân huệ từ người nghèo khổ, \q2 chính tay nó phải trả lại của cải nó đã chiếm. \q1 \v 11 Xương cốt nó đầy sinh lực thanh xuân, \q2 nhưng cũng phải nằm dưới cát bụi với nó. \b \q1 \v 12 Dù miệng nó cho tội ác là ngọt bùi, \q2 và giấu nọc độc dưới ba tấc lưỡi. \q1 \v 13 Dẫu nó cưu mang tội ác, không lìa bỏ, \q2 ngậm trong miệng, chẳng nhả ra. \q1 \v 14 Thức ăn nó nuốt vào bụng sẽ sình thối, \q2 trở thành mật rắn hổ\f + \fr 20:14 \fr*\ft Một loại rắn độc ở Phi Châu, Trung Đông \ft*\f* trong người. \q1 \v 15 Nó nuốt của cải vào rồi phải mửa ra. \q2 Của phi nghĩa Đức Chúa Trời không cho tiêu hóa. \q1 \v 16 Nó sẽ mút nọc độc rắn hổ. \q2 Lưỡi rắn lục sẽ giết chết nó. \q1 \v 17 Nó chẳng bao giờ được thấy các dòng sông dầu ô-liu \q2 hay dòng suối mật ong và dòng mỡ sữa. \q1 \v 18 Những gì nó bon chen kiếm được phải trả lại. \q2 Nó chẳng được hưởng lợi gì trong những cuộc bán buôn. \q1 \v 19 Vì nó áp bức và bỏ bê người nghèo khổ. \q2 Cướp đoạt nhà cửa nó không xây. \q1 \v 20 Nó luôn tham lam và không bao giờ thấy đủ. \q2 Thứ gì nó đã muốn mà có thể thoát được. \q1 \v 21 Chẳng thứ gì còn sót lại khi nó đã ăn. \q2 Nên cuộc giàu sang nó thật chóng qua. \b \q1 \v 22 Đang dư dật, nó bỗng ra túng ngặt \q2 và tai họa đổ xuống liên miên. \q1 \v 23 Đức Chúa Trời trút lên nó cơn thịnh nộ. \q2 Tuôn tràn như mưa ngàn thác lũ. \q1 \v 24 Dù nó thoát khỏi gươm giáo sắt, \q2 mũi tên đồng sẽ đâm thủng nó. \q1 \v 25 Khi rút mũi tên ra khỏi người nó, \q2 đầu mũi tên sáng loáng đã cắm vào gan. \q2 Nỗi kinh hoàng của sự chết chụp lấy nó. \q1 \v 26 Tối tăm mờ mịt rình rập tài sản nó. \q2 Lửa thiên nhiên sẽ thiêu cháy nó, \q2 tiêu diệt những gì sót lại trong lều nó. \q1 \v 27 Tội ác nó các tầng trời tố giác, \q2 và đất nổi phong ba chống đối kẻ gian tà. \q1 \v 28 Một cơn lũ cuốn trôi nhà nó với của cải. \q2 Trong ngày Đức Chúa Trời nổi giận. \q1 \v 29 Số phận ấy Đức Chúa Trời đã dành cho kẻ ác. \q2 Là cơ nghiệp Ngài dành cho nó.” \c 21 \s1 Lời Thứ Bảy của Gióp: Đáp Lời Sô-pha \q1 \v 1 Gióp đáp lại: \b \q1 \v 2 “Xin lắng nghe những gì tôi nói. \q2 Đó là cách các anh an ủi tôi. \q1 \v 3 Xin nhẫn nại, để nghe tôi thổ lộ. \q2 Chờ tôi nói xong rồi các anh cứ chê cười. \b \q1 \v 4 Thật ra, tôi đâu có phiền trách loài người. \q2 Tâm trí tôi thật là bấn loạn! \q1 \v 5 Xin các anh quay mặt nhìn tôi. \q2 Các anh sẽ sững sờ, lấy tay che miệng. \q1 \v 6 Chính tôi cũng sợ hãi khi nhìn bản thân. \q2 Toàn thân phải run lên cầm cập. \b \q1 \v 7 Tại sao bọn gian ác sống lâu, \q2 càng về già càng quyền thế? \q1 \v 8 Chính mắt chúng được chứng kiến rõ ràng, \q2 con cháu đông đúc và cường thịnh. \q1 \v 9 Nhà cửa chúng an ninh, không có gì phải sợ, \q2 và Đức Chúa Trời cũng không trừng phạt chúng. \q1 \v 10 Bò đực chúng tăng gia, không mất mát. \q2 Bò cái cũng sinh sôi, không sẩy. \q1 \v 11 Chúng đưa đàn con ra như bầy chiên. \q2 Con cái chúng mặc sức nô đùa nhảy múa. \q1 \v 12 Chúng ca hát theo tiếng trống và tiếng đàn hạc. \q2 Reo hò theo ống tiêu, ống sáo. \q1 \v 13 Chúng sống những ngày giàu sang thịnh vượng, \q2 rồi yên lành đi vào âm phủ. \q1 \v 14 Chúng dám nói với Đức Chúa Trời: ‘Xin hãy lìa xa. \q2 Chúng tôi chẳng muốn học biết đường lối Chúa! \q1 \v 15 Đấng Toàn Năng là ai mà chúng tôi phải vâng phục? \q2 Cầu nguyện cùng Chúa có ích lợi gì đâu?’ \q1 \v 16 (Chúng nghĩ sự hưng thịnh đang nằm trong tay chúng, \q2 nhưng tôi sẽ tránh xa âm mưu kẻ ác). \b \q1 \v 17 Dường như ánh sáng của kẻ ác chưa bao giờ tắt. \q2 Có bao giờ chúng gặp tai ương đâu? \q2 Chẳng lẽ Đức Chúa Trời vẫn chưa nổi giận hình phạt chúng? \q1 \v 18 Chúng chẳng bị cuốn theo chiều gió như rơm rác sao? \q2 Hay chẳng như tro trấu bị bão đùa đi tan tác? \b \q1 \v 19 Các anh bảo: ‘Đức Chúa Trời sẽ phạt con cái chúng về sau?’ \q2 Nhưng tôi nói Ngài sẽ phạt chính người có tội, \q2 để chúng hiểu sự phán xét của Ngài. \q1 \v 20 Xin cho chúng chứng kiến cảnh diệt vong. \q2 Xin để chúng uống chén thịnh nộ của Đấng Toàn Năng. \q1 \v 21 Vì một khi đã xuôi tay nhắm mắt, \q2 nó không còn hưởng được lạc thú gia đình. \b \q1 \v 22 Nhưng ai dám lên mặt dạy khôn Đức Chúa Trời, \q2 từ khi Ngài đoán xét kẻ tự tôn tự đại. \q1 \v 23 Có người chết khi đang sung sức, \q2 lúc thoải mái và thanh nhàn, \q1 \v 24 lúc thân thể còn tráng kiện, \q2 và tủy xương đang hồi cực thịnh. \q1 \v 25 Người khác lại qua đời trong đắng cay, \q2 chưa bao giờ tận hưởng đời sống tốt lành. \q1 \v 26 Lòng đất lạnh cả hai cùng nằm xuống, \q2 bị bọ giòi bao phủ như nhau. \b \q1 \v 27 Này, tôi biết rõ các anh đang nghĩ gì. \q2 Tôi biết cạm bẫy các anh định gài tôi. \q1 \v 28 Các anh bảo tôi bọn cường hào ác bá, \q2 đều bị họa cửa nhà tan nát vì tội của chúng. \q1 \v 29 Nhưng sao không hỏi những người chung quanh, \q2 họ sẽ cho các anh biết sự thật. \q1 \v 30 Kẻ ác thường được tai qua nạn khỏi \q2 và nó vẫn an nhiên thoát khỏi diệt vong. \q1 \v 31 Chẳng ai đem việc ác nó ra nguyền rủa \q2 hay báo trả những tội ác nó gây ra. \q1 \v 32 Khi chết, nó được an táng linh đình, \q2 nghĩa địa nó có người canh gác. \q1 \v 33 Kẻ ác vẫn được mồ yên mả đẹp. \q2 Mọi người kéo nhau đưa đám tang, \q2 người trước người sau nhiều vô kể. \b \q1 \v 34 Vậy, sao các anh còn phí công an ủi tôi? \q2 Những giải thích của các anh chỉ là giả dối.” \c 22 \s1 Ê-li-pha Đáp Lời Gióp Lần Thứ Ba \p \v 1 Ê-li-pha, người Thê-man lên tiếng: \q1 \v 2 “Con người có ích gì cho Đức Chúa Trời không? \q2 Như người khôn ngoan cũng chỉ lợi cho mình. \q1 \v 3 Có ích gì cho Đấng Toàn Năng nếu anh sống công chính? \q2 Có lợi gì cho Ngài nếu nếp sống anh trong sạch? \q1 \v 4 Có phải vì anh thiện hảo nên Ngài phạt anh \q2 và phán xét nghịch cùng anh chăng? \q1 \v 5 Không, nhưng chính vì anh gian ác! \q2 Tội lỗi anh nhiều vô kể! \b \q1 \v 6 Anh cho bạn bè mượn tiền \q2 rồi đòi hỏi thế chấp quần áo. \q2 Phải, anh đã lột trần họ đến phải trần truồng. \q1 \v 7 Anh từ chối cho nước người đang khát, \q2 và cho lương thực người đang đói. \q1 \v 8 Còn người quyền thế được sở hữu đất đai \q2 và chỉ người ưu đãi được sống chỗ an lành. \q1 \v 9 Người góa bụa anh đuổi đi tay trắng, \q2 và bẻ gãy niềm hy vọng của người mồ côi. \q1 \v 10 Vì thế, chung quanh anh có đầy cạm bẫy \q2 và nỗi kinh hoàng bất chợt tấn công. \q1 \v 11 Tăm tối phủ bao nên mắt anh không thấy, \q2 nước dâng lên nhận anh chìm xuống. \b \q1 \v 12 Đức Chúa Trời vô cùng oai vệ—cao hơn các tầng trời, \q2 cao vời vợi hơn các vì sao. \q1 \v 13 Nhưng anh đáp: ‘Vì vậy mà Đức Chúa Trời không thấy những việc tôi làm! \q2 Làm sao Ngài xét đoán qua bức màn đêm dày đặc? \q1 \v 14 Mây đen bao phủ quanh Ngài nên Ngài chẳng thấy chúng ta. \q2 Chúa ngự trên trời cao, bước đi trên tột đỉnh vòm trời.’ \b \q1 \v 15 Anh sẽ tiếp tục theo lề lối cũ \q2 mà kẻ ác từng đi qua chăng? \q1 \v 16 Chúng đều bị tống khứ trước kỳ hạn, \q2 Nền tảng cuộc đời chúng bị nước cuốn trôi. \q1 \v 17 Chúng nói với Đức Chúa Trời: ‘Hãy bỏ mặc chúng tôi! \q2 Đấng Toàn Năng có thể làm gì cho chúng tôi?’ \q1 \v 18 Thế mà Chúa vẫn cho nhà chúng đầy vật tốt, \q2 vì thế tôi vẫn đứng xa mưu chước của kẻ ác. \b \q1 \v 19 Người công chính vui mừng khi kẻ ác bị phạt, \q2 và đoàn người vô tội nhạo cười chúng. \q1 \v 20 Họ sẽ nói: ‘Hãy xem kẻ thù nghịch ta bị quét sạch. \q2 Kẻ nào còn sót lại lửa sẽ thiêu cháy.’ \b \q1 \v 21 Hãy quy phục Đức Chúa Trời, và anh sẽ được bình an; \q2 rồi hưng thịnh sẽ đến với anh. \q1 \v 22 Hãy lắng nghe luật miệng Ngài tuyên phán, \q2 ghi lòng tạc dạ lời Chúa dạy khuyên. \q1 \v 23 Nếu anh trở về với Đấng Toàn Năng, anh sẽ được phục hồi— \q2 vậy, hãy làm sạch đời sống mình, \q1 \v 24 Nếu anh chịu ném bảo vật xuống cát bụi \q2 và ném vàng quý giá xuống sông, \q1 \v 25 thì Đấng Toàn Năng sẽ thành kho báu của anh. \q2 Ngài sẽ là bạc quý cho anh. \b \q1 \v 26 Trong Đấng Toàn Năng, anh được niềm vui sướng vô biên, \q2 anh mới biết ngưỡng vọng nơi Đức Chúa Trời. \q1 \v 27 Khi ấy, anh cầu xin Chúa mới nhậm lời, \q2 và anh sẽ hoàn thành điều anh hứa nguyện. \q1 \v 28 Khi ấy, anh ước gì được nấy, \q2 và ánh hừng đông soi sáng mọi nẻo đường. \q1 \v 29 Nếu có người gặp hoạn nạn, anh nói: ‘Xin giúp họ,’ \q2 thì Đức Chúa Trời sẽ cứu kẻ bị khốn cùng. \q1 \v 30 Dù kẻ có tội cũng sẽ được cứu; \q2 chúng được cứu nhờ đôi tay thanh sạch của anh.” \c 23 \s1 Lời Thứ Tám của Gióp: Đáp Lời Ê-li-pha \p \v 1 Gióp đáp: \q1 \v 2 “Đến nay tiếng tôi than vẫn đượm nhiều cay đắng, \q2 tay Chúa vẫn đè nặng trên tôi dù tôi rên rỉ. \q1 \v 3 Ước gì tôi biết nơi tìm gặp Đức Chúa Trời, \q2 hẳn tôi sẽ đến chầu trước ngai Ngài. \q1 \v 4 Tôi sẽ phơi bày lý lẽ tôi, \q2 và trình bày lời lập luận của mình. \q1 \v 5 Rồi tôi sẽ nghe lời Chúa giải đáp \q2 và hiểu được điều Ngài phán dạy tôi. \q1 \v 6 Chẳng lẽ Chúa lấy quyền năng lớn lao mà chống đối tôi? \q2 Không, Ngài sẽ lắng nghe tôi công bằng. \q1 \v 7 Người ngay thẳng có thể trình bày tự sự,\f + \fr 23:7 \fr*\ft Nt lý luận với Ngài \ft*\f* \q2 và tôi sẽ được quan tòa tôi khoan hồng mãi mãi. \q1 \v 8 Tôi đi về hướng đông, Chúa không ở đó. \q2 Tôi đi về hướng tây, nhưng cũng không tìm thấy Ngài. \q1 \v 9 Tôi không thấy Chúa ở hướng bắc, vì Ngài đã giấu mặt. \q2 Tôi nhìn về hướng nam, nhưng Ngài đã ẩn mình. \b \q1 \v 10 Nhưng Chúa biết rõ con đường tôi đi. \q2 Khi Ngài thử nghiệm tôi, tôi sẽ trở nên như vàng. \q1 \v 11 Chân tôi theo sát bước Đức Chúa Trời, \q2 Tôi giữ đúng đường Ngài và không trở bước. \q1 \v 12 Cũng không tẻ tách mệnh lệnh Ngài, \q2 nhưng tôi quý lời Ngài hơn món ăn ngon. \q1 \v 13 Chúa không hề sai lời, ai làm Chúa đổi thay? \q2 Khi đã quyết định điều gì, Chúa thực hiện quyết định ấy. \q1 \v 14 Chúa đã thực hiện ý muốn của Ngài đối với tôi. \q2 Ngài nắm giữ số phận tôi. \q1 \v 15 Vì vậy, tôi kinh hoảng trước mặt Ngài. \q2 Càng suy nghiệm, tôi càng sợ Chúa. \q1 \v 16 Đức Chúa Trời khiến lòng tôi bủn rủn; \q2 và hãi hùng trước Đấng Toàn Năng. \q1 \v 17 Tuy vậy, tôi không bị bóng tối làm cho câm nín, \q2 hay đêm tối dày đặc phủ mặt tôi.” \c 24 \s1 Gióp Hỏi Tại Sao Kẻ Ác Không Bị Trừng Phạt \q1 \v 1 “Sao Đấng Toàn Năng không mang kẻ ác ra xét đoán? \q2 Tại sao để người biết Chúa phải mòn mỏi chờ trông? \q1 \v 2 Có kẻ gian dời đá ngăn ranh giới. \q2 Cướp bầy chiên rồi đem chúng về đồng cỏ mình. \q1 \v 3 Họ trộm lừa của người mồ côi \q2 và bắt bò của người góa bụa làm của thế chấp. \q1 \v 4 Họ đẩy người nghèo khổ khỏi đường họ đi; \q2 bắt người khốn cùng trên đất phải chạy trốn. \q1 \v 5 Như lừa rừng trong hoang mạc, \q2 người nghèo nai lưng làm lụng kiếm ăn, \q2 tìm kiếm thức ăn cho con mình dù trong hoang mạc. \q1 \v 6 Họ gặt hái trong đồng mình không làm chủ, \q2 và mót trái trong vườn nho của kẻ ác. \q1 \v 7 Suốt đêm họ trần truồng trong giá lạnh, \q2 không áo quần cũng chẳng có chăn mền. \q1 \v 8 Họ ướt sũng trong mưa núi, \q2 chạy ẩn nơi núi đá\f + \fr 24:8 \fr*\ft Nt ôm tảng đá \ft*\f* vì không chỗ trú thân. \b \q1 \v 9 Kẻ ác giật con côi khỏi vú mẹ, \q2 bắt giữ trẻ thơ làm con tin. \q1 \v 10 Bắt người nghèo khổ ra đi không manh áo. \q2 Vác lúa nặng mà bụng vẫn đói. \q1 \v 11 Bắt họ ép dầu ô-liu mà không được nếm dầu, \q2 ép nho lúc khát khô cổ mà không được uống nước nho. \q1 \v 12 Người hấp hối rên la trong thành phố, \q2 hồn người bị thương kêu khóc liên hồi, \q2 nhưng Đức Chúa Trời làm ngơ tiếng than van của họ. \b \q1 \v 13 Có kẻ ác nổi lên chống ánh sáng. \q2 Họ không biết hướng \q2 cũng không đi trên đường ánh sáng. \q1 \v 14 Buổi sáng, kẻ giết người thức dậy \q2 tàn sát người nghèo thiếu; \q2 ban đêm, họ trở thành tay trộm cướp. \q1 \v 15 Mắt kẻ dâm loạn trông chờ bóng tối, \q2 nói rằng: ‘Nào ai thấy được ta.’ \q2 Họ che mặt để không ai biết họ. \q1 \v 16 Tên trộm đột nhập vào nhà ban đêm \q2 còn ban ngày thì nằm ngủ. \q2 Họ không bao giờ hành động dưới ánh sáng. \q1 \v 17 Đối với họ, đêm tối là bình minh. \q2 Vì họ làm bạn với hãi hùng của bóng tối. \b \q1 \v 18 Nhưng họ sẽ biến mất như bọt trên mặt nước. \q2 Mọi thứ của họ sẽ bị nguyền rủa, \q2 và họ sợ hãi không bước vào vườn nho. \q1 \v 19 Như nắng hạn nuốt hết nước chứa trong kho tuyết, \q2 âm phủ cũng nuốt bọn người tội ác. \q1 \v 20 Chính mẹ của họ cũng sẽ quên họ. \q2 Giòi bọ ăn nuốt thịt họ. \q2 Không ai còn tưởng nhớ họ nữa. \q2 Kẻ bất công, áp bức sẽ gãy đổ như cây khô. \q1 \v 21 Họ bạc đãi người đàn bà son sẻ, \q2 từ chối giúp đỡ các góa phụ yếu đuối. \b \q1 \v 22 Trong năng quyền Đức Chúa Trời, Ngài tiêu diệt kẻ bạo tàn. \q2 Khi Ngài ra tay, họ không còn hy vọng sống. \q1 \v 23 Chúa cho họ được an ninh, \q2 nhưng thật ra, Đức Chúa Trời vẫn để mắt theo dõi họ. \q1 \v 24 Họ được trọng vọng trong chốc lát, \q2 nhưng rồi bị tiêu diệt như muôn nghìn người khác, \q2 như lúa bị cắt trong mùa gặt. \q1 \v 25 Ai có thể bảo đây là lời dối? \q2 Ai có thể đánh đổ lý luận của tôi?” \c 25 \s1 Binh-đát Đáp Lời Gióp Lần Thứ Ba \p \v 1 Binh-đát, người Su-a, đáp: \q1 \v 2 “Đức Chúa Trời vẫn cầm quyền tể trị và đáng khiếp sợ. \q2 Chúa lập trật tự tại các nơi cao trên trời. \q1 \v 3 Ai có thể đếm được đạo quân của Chúa? \q2 Có phải ánh sáng Ngài soi khắp đất? \q1 \v 4 Làm sao loài người được kể là vô tội trước mắt Đức Chúa Trời? \q2 Có ai từ người nữ sinh ra được xem là tinh sạch? \q1 \v 5 Đức Chúa Trời vinh quang hơn mặt trăng, \q2 Ngài chiếu sáng hơn các vì sao. \q1 \v 6 Huống chi con người, một loài giòi bọ; \q2 con cái loài người, một giống côn trùng.” \c 26 \s1 Lời Thứ Chín của Gióp: Đáp Lời Binh-đát \p \v 1 Gióp đáp: \q1 \v 2 “Anh khéo bênh vực người cô thế! \q2 Cứu giúp người yếu đuối! \q1 \v 3 Khuyên bảo người dại dột! \q2 Đưa ra nhiều ý kiến khôn ngoan! \q1 \v 4 Ai đã giúp anh nói những lời này? \q2 Thần linh nào phán bảo qua môi miệng anh? \b \q1 \v 5 Người chết quằn quại đau thương— \q2 dưới nước sâu cũng như các sinh vật ở đó. \q1 \v 6 Trước mắt Đức Chúa Trời, âm phủ lộ nguyên hình. \q2 Tử thần không che khuất. \q1 \v 7 Đức Chúa Trời trải phương bắc của bầu trời trên không gian trống trải \q2 và treo địa cầu lơ lửng trong khoảng không. \q1 \v 8 Chúa dồn chứa nước mưa trong các đám mây, \q2 nhưng mây không vỡ tan vì lượng nước nhiều. \q1 \v 9 Chúa che phủ mặt trăng tròn, \q2 và trải mây ra trên đó. \q1 \v 10 Chúa tạo dựng chân trời khi Ngài phân rẽ nước; \q2 làm ranh giới giữa ngày và đêm. \q1 \v 11 Cột trụ của các tầng trời run rẩy; \q2 sửng sốt khi Ngài quở trách. \q1 \v 12 Quyền năng làm đại dương dậy sóng. \q2 Tri thức Ngài đánh gục Ra-háp. \q1 \v 13 Thần Linh Chúa điểm tô các tầng trời, \q2 bàn tay Ngài đâm thủng con rắn đang trốn chạy. \q1 \v 14 Đây mới là bắt đầu của tất cả việc Ngài làm, \q2 chỉ là tiếng thì thầm của năng quyền Ngài. \q2 Vậy thử hỏi ai hiểu được tiếng sấm của quyền năng Ngài?” \c 27 \s1 Lời Đáp Cuối Cùng của Gióp \p \v 1 Gióp tiếp tục biện luận: \q1 \v 2 “Thật như Đức Chúa Trời Hằng Sống, Đấng tước lấy công chính tôi, \q2 Đấng Toàn Năng làm cho linh hồn tôi cay đắng— \q1 \v 3 Ngày nào tôi còn sự sống, \q2 và hơi thở Đức Chúa Trời còn trong mũi tôi, \q1 \v 4 môi miệng tôi sẽ không nói lời nào gian ác, \q2 và lưỡi tôi sẽ không dối trá gạt lừa. \q1 \v 5 Hẳn tôi không thể nào cho các anh là phải; \q2 cho đến chết, tôi vẫn coi mình liêm chính. \q1 \v 6 Tôi vẫn giữ vững sự công chính, không rời bỏ. \q2 Suốt đời, tôi không bị lương tâm tố cáo. \b \q1 \v 7 Ước gì thù nghịch tôi giống như kẻ gian ác, \q2 người chống đối tôi như kẻ bất nghĩa. \q1 \v 8 Kẻ vô đạo còn hy vọng gì \q2 khi bị Đức Chúa Trời cất mạng sống đi? \q1 \v 9 Đức Chúa Trời có nghe tiếng nó kêu to \q2 khi nó gặp tai họa bất ngờ? \q1 \v 10 Nó có thể vui thích trong Đấng Toàn Năng, \q2 và thường xuyên kêu cầu Đức Chúa Trời không? \q1 \v 11 Tôi sẽ dạy các anh về quyền năng Đức Chúa Trời. \q2 Không giấu các anh điều gì về Đấng Toàn Năng. \q1 \v 12 Nhưng những điều ấy các anh đều biết cả, \q2 mà sao các anh vẫn nói những lời vô nghĩa với tôi. \b \q1 \v 13 Đây là số phận Đức Chúa Trời dành cho người gian tà; \q2 đây là cơ nghiệp kẻ độc ác nhận từ Đấng Toàn Năng: \q1 \v 14 Dù nó có đông con cái, \q2 nhưng con cái nó sẽ chết vì chiến tranh và vì đói khát. \q1 \v 15 Những đứa sống sót cũng chết vì bệnh tật, \q2 ngay cả vợ góa của nó cũng chẳng buồn khóc than. \b \q1 \v 16 Kẻ ác gom góp bạc tiền như núi, \q2 và sắm sửa áo quần đầy tủ, \q1 \v 17 Nhưng người công chính sẽ mặc quần áo, \q2 và người vô tội sẽ chia nhau tiền bạc nó. \q1 \v 18 Nhà kẻ ác cất giống như tổ sâu tằm, \q2 chẳng khác gì chòi của người canh. \q1 \v 19 Khi đi ngủ kẻ ác vẫn giàu có, \q2 nhưng lúc thức dậy sự nghiệp tan tành. \q1 \v 20 Kinh hoàng chụp lấy nó như nước lụt \q2 và ban đêm cơn lốc cuốn nó đi. \q1 \v 21 Trận gió đông đùa nó bay đi mất. \q2 Ngọn trốt bốc hắn ra khỏi chỗ hắn. \q1 \v 22 Sức mạnh ấy quật vào mình hắn không thương xót. \q2 Nó vùng vẫy chạy trốn trận cuồng phong. \q1 \v 23 Nhưng mọi người nhạo cười \q2 và chế giễu nó.” \c 28 \s1 Gióp Ca Ngợi Sự Khôn Ngoan và Hiểu Biết \q1 \v 1 “Loài người biết nơi để đào lấy bạc, \q2 và biết cách luyện vàng. \q1 \v 2 Họ biết cách lấy sắt lấy ra từ đất, \q2 và biết cách làm đồng chảy ra từ quặng. \q1 \v 3 Họ biết chiếu rọi ánh sáng trong bóng tối, \q2 dò tìm trong nơi sâu nhất \q2 để kiếm quặng kim loại trong chỗ tối đen nhất. \q1 \v 4 Người ta đào đường hầm trong đất, \q2 cách xa nơi người ở. \q2 Họ dòng dây đong đưa lui tới. \q1 \v 5 Đất sinh ra lương thực, \q2 nhưng lòng đất đang bị lửa biến đổi. \q1 \v 6 Ở đó lam ngọc ra từ đá, \q2 trong bụi nó có mạt vàng. \q1 \v 7 Đây là những kho báu chim trời không hề bay tới, \q2 mắt chim ưng cũng không hề nhìn thấy. \q1 \v 8 Không một dã thú nào bén mảng; \q2 cả sư tử cũng chưa đặt chân. \q1 \v 9 Con người chẻ được đá lửa \q2 và khai hoang chân núi. \q1 \v 10 Họ đào hầm xuyên núi, \q2 mắt thấy được mọi kho tàng quý bên trong. \q1 \v 11 Người tìm cho ra nguồn của sông suối \q2 và khám phá ra nhiều điều bí ẩn. \b \q1 \v 12 Nhưng loài người tìm khôn ngoan ở đâu? \q2 Nơi nào họ có thể tìm tri thức? \q1 \v 13 Thật ra không ai biết tìm nó ở đâu, \q2 vì không thể tìm tại nơi người sống. \q1 \v 14 Vực sâu rằng: ‘Nó không có trong tôi.’ \q2 Biển nói: ‘Nó cũng không ở với tôi.’ \q1 \v 15 Khôn ngoan không thể mua bằng vàng ròng. \q2 Giá nó cũng không thể lấy bạc mà lường. \q1 \v 16 Giá trị nó hơn cả vàng ô-phia, \q2 ngọc mã não, ngọc lam cũng không mua được. \q1 \v 17 Vàng hay pha lê không so được với khôn ngoan. \q2 Không đổi được bằng bình vàng ròng. \q1 \v 18 Ngọc san hô hoặc các bảo vật bằng thủy tinh cũng vô giá trị, \q2 Vì khôn ngoan còn đắt giá hơn hồng ngọc. \q1 \v 19 Hoàng ngọc Ê-thi-ô-pi không so được với nó. \q2 Dù có vàng ròng cũng không tài nào mua được. \b \q1 \v 20 Vậy, loài người tìm khôn ngoan ở đâu? \q2 Họ có thể tìm tri thức ở nơi nào? \q1 \v 21 Nó ẩn giấu khỏi mắt mọi sinh vật. \q2 Kể cả mắt tinh của chim trời cũng không thể tìm được nó. \q1 \v 22 Âm Phủ và Sự Chết nói rằng: \q2 ‘Tiếng đồn về nó có đến tai chúng tôi.’ \b \q1 \v 23 Chỉ Đức Chúa Trời hiểu con đường đến sự khôn ngoan; \q2 Ngài biết tìm nó ở nơi đâu, \q1 \v 24 vì Ngài thấu suốt đầu cùng đất, \q2 và thấy rõ mọi vật dưới tầng trời. \q1 \v 25 Chúa ấn định sức mạnh cho gió, \q2 và đo lường mưa đổ bao nhiêu. \q1 \v 26 Khi Chúa định luật lệ cho mưa \q2 và vạch đường cho sấm chớp. \q1 \v 27 Lúc ấy Chúa tìm và thẩm định giá trị của khôn ngoan. \q2 Ngài xác nhận và thử nghiệm nó. \q1 \v 28 Đây là điều Chúa phán bảo con người: \q2 ‘Kính sợ Chúa đó là sự khôn ngoan; \q2 tránh xa tội ác đó là điều tri thức.’” \c 29 \s1 Gióp Nói về Ơn Phước Ngày Trước \p \v 1 Gióp tiếp lời: \q1 \v 2 “Ước gì tôi được trở về những ngày tháng trước, \q2 khi Đức Chúa Trời còn chăm sóc tôi, \q1 \v 3 khi ngọn đèn Chúa còn soi sáng trên đầu tôi \q2 và tôi bước đi an toàn trong tối tăm. \q1 \v 4 Khi tôi còn tráng kiện\f + \fr 29:4 \fr*\ft Ctd trong ngày gặt hái\ft*\f* \q2 tình bạn của Đức Chúa Trời thân thiết trong nhà tôi.\f + \fr 29:4 \fr*\ft Nt trại \ft*\f* \q1 \v 5 Khi Đấng Toàn Năng còn ở với tôi, \q2 và con cái quây quần bên tôi. \q1 \v 6 Khi lối tôi đi ngập kem sữa, \q2 và đá tuôn ra suối dầu ô-liu cho tôi. \b \q1 \v 7 Thời ấy, khi tôi ra cổng thành \q2 và chọn ngồi giữa những lãnh đạo danh dự. \q1 \v 8 Người trẻ tuổi đứng sang một bên khi thấy tôi, \q2 còn người lớn tuổi đứng lên chào đón. \q1 \v 9 Các hoàng tử đứng lên im tiếng, \q2 và lấy tay che miệng lại. \q1 \v 10 Các quan chức cao của thành đứng yên lặng, \q2 giữ lưỡi mình trong kính trọng. \b \q1 \v 11 Ai nghe tôi nói đều khen ngợi, \q2 Ai thấy tôi đều nói tốt cho tôi. \q1 \v 12 Vì tôi giải cứu người nghèo khổ khi họ cần đến, \q2 và trẻ mồ côi cần nơi nương tựa. \q1 \v 13 Những người đang hấp hối cũng chúc tụng tôi. \q2 Và người góa bụa nhờ tôi mà tâm hồn ca hát. \q1 \v 14 Mọi thứ tôi làm là chân thật. \q2 Tôi mặc lấy công chính như áo, \q2 và công lý như khăn quấn trên đầu tôi. \q1 \v 15 Tôi là mắt cho người mù \q2 và chân cho người què \q1 \v 16 Tôi là cha của người nghèo khó, \q2 và tra xét hoàn cảnh cho khách lạ. \q1 \v 17 Tôi bẻ nanh vuốt bọn gian manh vô đạo \q2 và rứt các nạn nhân ra khỏi răng chúng nó. \b \q1 \v 18 Tôi tự bảo: ‘Chắc tôi sẽ được chết trong nhà tôi, \q2 khi những ngày của tôi đã nhiều như cát. \q1 \v 19 Vì tôi như rễ sẽ ăn ra cho đến dòng nước, \q2 cả đêm sương đọng trên cành lá tôi. \q1 \v 20 Vinh quang tôi sẽ mãi sáng chói trong tôi, \q2 và sức mạnh tôi tiếp tục mới mẻ.’ \b \q1 \v 21 Mọi người lắng tai nghe ý kiến tôi. \q2 Họ im lặng nghe tôi khuyên nhủ. \q1 \v 22 Sau khi tôi nói, họ không còn gì để thêm, \q2 vì lời tôi nói làm hài lòng họ. \q1 \v 23 Họ mong tôi nói như người ta đợi mưa. \q2 Họ uống lời tôi như uống nước mưa xuân. \q1 \v 24 Khi họ nản lòng tôi cười với họ. \q2 Mặt tôi rạng rỡ làm khích lệ họ. \q1 \v 25 Như một thủ lãnh, tôi chỉ dẫn điều họ phải làm. \q2 Tôi sống như nhà vua giữa đạo binh mình \q2 và an ủi những ai sầu khổ.” \c 30 \s1 Gióp Nói về Nỗi Đau Đớn Mình \q1 \v 1 “Thế mà bây giờ người trẻ hơn tôi dám khinh nhạo tôi, \q2 dù cha họ ngày trước chẳng đáng xếp ngang với chó chăn chiên của tôi. \q1 \v 2 Nhưng họ có giúp ích gì cho tôi đâu— \q2 một khi họ đã sức tàn lực cạn! \q1 \v 3 Họ gầy đét vì đói khát \q2 và bỏ trốn vào trong hoang mạc, \q2 gặm đất khô trong nơi đổ nát và tiêu điều. \q1 \v 4 Họ ăn cả rễ lẫn lá \q2 của các loại cây giếng giêng.\f + \fr 30:4 \fr*\ft Ctd lá cẩm quỳ, cây chổi \ft*\f* \q1 \v 5 Họ bị gạt khỏi xã hội loài người, \q2 bị hô hoán như họ là trộm cướp. \q1 \v 6 Họ bị dồn vào khe núi hãi hùng, \q2 xuống hang sâu, hầm đá hoang liêu. \q1 \v 7 Họ kêu la như thú giữa các bụi cây, \q2 nằm chen nhau bên lùm gai gốc. \q1 \v 8 Họ là cặn bã xã hội, \q2 đất nước cũng khai trừ. \b \q1 \v 9 Thế mà nay họ đặt vè giễu cợt! \q2 Đem tôi ra làm đề tài mỉa mai nhạo báng. \q1 \v 10 Họ khinh miệt tôi, tránh né tôi, \q2 và không ngại nhổ vào mặt tôi. \q1 \v 11 Vì Đức Chúa Trời tước khí giới \f + \fr 30:11 \fr*\ft Ctd tháo dây cung\ft*\f* tôi. \q2 Chúa làm khổ tôi, \q2 nên thấy tôi, họ không thèm nể mặt. \q1 \v 12 Bên phải tôi, một đám tạp dân xuất hiện. \q2 Xô đẩy chân tôi \q2 và dồn tôi vào đường chết.\f + \fr 30:12 \fr*\ft Nt con đường hủy diệt \ft*\f* \q1 \v 13 Họ phá hoại con đường tôi đi, \q2 và làm mọi điều để có thể diệt tôi. \q2 Họ biết tôi không còn ai giúp đỡ. \q1 \v 14 Họ kéo ùa vào từ mọi ngõ ngách. \q2 Tràn qua tôi khi tôi ngã gục. \q1 \v 15 Bây giờ, tôi sống trong cơn khủng khiếp. \q2 Linh hồn tôi bị gió thổi bay, \q2 và sự thịnh vượng tôi tan biến như mây. \b \q1 \v 16 Và bây giờ đời sống tôi tan chảy. \q2 Những ngày tai họa hãm bắt tôi. \q1 \v 17 Những đêm trường đầy dẫy đau thương, \q2 làm cho tôi nhức nhối không ngừng nghỉ. \q1 \v 18 Với đôi tay mạnh mẽ, Đức Chúa Trời nắm áo tôi. \q2 Ngài túm chặt cổ áo tôi. \q1 \v 19 Chúa đã quăng tôi xuống bùn đen. \q2 Tôi không khác gì bụi đất và tro tàn. \b \q1 \v 20 Lạy Đức Chúa Trời, con kêu cầu, nhưng Ngài không đáp lại. \q2 Con đứng trước Chúa, nhưng Chúa chẳng đoái hoài. \q1 \v 21 Chúa trở thành tàn nhẫn với con. \q2 Ngài dùng quyền năng Ngài đánh con liên tiếp. \q1 \v 22 Chúa bốc con lên trước ngọn gió \q2 và làm con tan tác trước cuồng phong. \q1 \v 23 Vì con biết Chúa sắp đưa con vào cõi chết— \q2 đến nơi dành sẵn cho mọi sinh linh. \b \q1 \v 24 Thật không ai có thể trở mặt chống người nghèo thiếu \q2 khi họ kêu xin giúp đỡ lúc lâm nguy. \q1 \v 25 Có phải tôi từng khóc vì người khốn khổ? \q2 Tôi không chia sẻ buồn đau với người nghèo khó sao? \q1 \v 26 Thế mà khi mong phước, tôi chỉ gặp họa. \q2 Khi đợi ánh sáng, lại chỉ thấy tối tăm. \q1 \v 27 Lòng dạ tôi sùng sục không chịu lặng yên. \q2 Tai họa tới tấp như ba đào dồn dập. \q1 \v 28 Tôi bước đi trong tăm tối, không ánh mặt trời. \q2 Tôi đứng trước đám đông và kêu xin giúp đỡ. \q1 \v 29 Thay vào đó, tôi trở thành anh em của chó rừng \q2 và bạn bè cùng đà điểu. \q1 \v 30 Da tôi đen cháy và bong ra, \q2 xương tôi nóng hực như lên cơn sốt. \q1 \v 31 Tiếng đàn hạc tôi trở giọng bi ai, \q2 và tiếng sáo tôi như tiếng ai than khóc.” \c 31 \s1 Lời Biện Hộ Cuối Cùng của Gióp \q1 \v 1 “Tôi đã lập giao ước với mắt tôi, \q2 là đừng nhìn các thiếu nữ. \q1 \v 2 Đức Chúa Trời trên trời cao ban gì cho chúng ta? \q2 Chúng ta được cơ nghiệp gì từ Đấng Toàn Năng cao cả? \q1 \v 3 Há chẳng phải là họa cho kẻ gian tà \q2 và tai nạn cho người độc ác sao? \q1 \v 4 Chẳng lẽ Chúa không thấy mọi việc tôi làm \q2 và mỗi bước tôi đi sao? \b \q1 \v 5 Tôi có dối trá ai \q2 hay lừa gạt người nào không? \q1 \v 6 Xin Đức Chúa Trời đem tôi cân trên bàn cân công bằng, \q2 vì Chúa biết lòng tôi ngay thẳng. \q1 \v 7 Nếu tôi tẻ tách đường lối Chúa, \q2 hay nếu lòng tôi nổi lên thèm khát những gì mắt tôi thấy, \q2 hoặc nếu tay tôi dính dấp vào tội ác, \q1 \v 8 nguyện người khác gặt hái hết hoa lợi tôi gieo. \q2 Và cây cối trong vườn tôi trồng đều bật gốc. \b \q1 \v 9 Nếu lòng tôi còn bị phụ nữ mê hoặc, \q2 hay nếu tôi rình rập vợ người lân cận, \q1 \v 10 thì nguyện vợ tôi thuộc về người khác; \q2 và người khác ngủ với nàng. \q1 \v 11 Vì dục tình là một điều sỉ nhục, \q2 là tội nặng đáng bị tòa án hình phạt. \q1 \v 12 Nó là lửa đốt cháy mọi lối địa ngục. \q2 Và phá đổ cả công trình tôi thu góp. \b \q1 \v 13 Nếu tôi khinh thường quyền của tôi trai tớ gái, \q2 khi họ đến than phiền khiếu nại, \q1 \v 14 làm sao tôi còn dám đối mặt Đức Chúa Trời? \q2 Nếu Chúa tra hỏi, tôi biết trả lời sao? \q1 \v 15 Vì Đức Chúa Trời dựng nên tôi và đầy tớ tôi. \q2 Chúa tạo cả hai chúng tôi từ lòng mẹ. \b \q1 \v 16 Tôi có từ khước giúp đỡ người nghèo, \q2 hay nghiền nát hy vọng của góa phụ không? \q1 \v 17 Tôi có dành ăn một mình \q2 và không chia sẻ thực phẩm cho cô nhi không? \q1 \v 18 Không, từ thuở thiếu niên, tôi đã chăm sóc các cô nhi như một người cha, \q2 và cả đời tôi đã nâng đỡ góa phụ. \q1 \v 19 Bất cứ khi nào tôi thấy người vô gia cư không quần áo, \q2 và người nghèo không mảnh áo che thân, \q1 \v 20 chẳng lẽ họ không chúc phước cho tôi, \q2 vì đã cung cấp cho họ quần áo len giữ được ấm áp sao? \b \q1 \v 21 Nếu tôi đưa tay hại các cô nhi, \q2 và ỷ lại quyền thế giữa phiên tòa, \q1 \v 22 nguyện vai tôi lìa khỏi thân! \q2 Và cánh tay đứt rời nơi cùi chõ! \q1 \v 23 Thà bị tật nguyền như thế còn hơn bị Đức Chúa Trời phạt. \q2 Vì nếu uy nghi Ngài chống lại tôi, tôi còn gì hy vọng? \b \q1 \v 24 Tôi để lòng tin cậy nơi bạc tiền, \q2 hay cảm thấy an toàn vì vàng của tôi không? \q1 \v 25 Có phải tôi hân hoan vì nhiều của cải, \q2 và mọi thứ tôi tạo nên không? \q1 \v 26 Chẳng phải tôi thấy ánh mặt trời trên cao, \q2 hay nhìn ánh trăng chiếu sáng đường đi, \q1 \v 27 mà hồn tôi bị mê hoặc \q2 đưa tay tôi gửi cho chúng cái hôn gió sao? \q1 \v 28 Nếu vậy, thì tội tôi đáng bị tòa xét xử, \q2 vì như thế là chối bỏ Đức Chúa Trời của các tầng trời. \b \q1 \v 29 Tôi có vui mừng khi thấy kẻ thù bị lâm nạn, \q2 hay đắc chí khi tai họa đến trong đường họ không? \q1 \v 30 Không, tôi không cho phép miệng tôi hành tội bất cứ ai \q2 hay nguyền rủa sinh mạng họ. \b \q1 \v 31 Đầy tớ tôi chẳng bao giờ nói: \q2 ‘Ông ấy để người khác phải đói.’ \q1 \v 32 Tôi chưa bao giờ quay lưng với người xa lạ \q2 nhưng luôn mở rộng cửa đón tiếp mọi người. \b \q1 \v 33 Tôi có che giấu tội mình như người khác làm, \q2 chôn chặt gian ác tận đáy lòng không? \q1 \v 34 Chẳng lẽ tôi phải sợ hãi đám đông, \q2 hoặc run rẩy vì họ chê cười, \q2 nên tôi phải im lặng và trốn sau cánh cửa sao? \b \q1 \v 35 Ước gì có ai chịu lắng nghe tôi! \q2 Tôi sẽ ký tên vào bản bào chữa của tôi. \q2 Xin Đấng Toàn Năng vui lòng giải đáp. \q2 Hay cho kẻ cáo tội tôi viết cáo trạng! \q1 \v 36 Nếu được thế, tôi sẽ xin đeo cáo trạng ấy trên vai. \q2 Hoặc đội trên đầu như cái mão. \q1 \v 37 Tôi sẽ xin khai với Chúa những việc tôi đã làm. \q2 Tôi sẽ đến trước Chúa như một hoàng tử. \b \q1 \v 38 Nếu đất vườn tôi lên tiếng tố cáo \q2 và tất cả luống cày cùng nhau than khóc, \q1 \v 39 hay nếu tôi đã cướp đoạt hoa lợi \q2 hay gây ra cái chết cho chủ nó, \q1 \v 40 thì xin cho gai gốc mọc lên thay cho lúa mì \q2 và cỏ dại thay chỗ của lúa mạch.” \p Lời của Gióp đến đây là hết. \c 32 \s1 Ê-li-hu Đáp Lời Ba Bạn của Gióp \p \v 1 Lúc ấy, ba bạn của Gióp không còn luận cứ nào để bài bác Gióp, vì ông cho mình là người công chính. \p \v 2 Nhưng Ê-li-hu, con Ba-ra-kê-ên, người Bu-xi, dòng họ Ram, giận Gióp. Ông giận vì Gióp không nhận mình có tội và Đức Chúa Trời hình phạt ông là đúng. \v 3 Ê-li-hu cũng giận ba bạn của Gióp, vì họ không có khả năng để trả lời những lý lẽ của Gióp. \v 4 Ê-li-hu phải đợi đến phiên mình đối đáp với Gióp vì những người kia lớn tuổi hơn ông. \v 5 Nhưng khi ông thấy họ không biết trả lời thế nào nữa thì ông nổi giận. \v 6 Ê-li-hu, con trai Ba-ra-kê-ên, người Bu-xi, nói: \q1 “Tôi còn trẻ và các anh đã có tuổi, \q2 nên tôi dè dặt, không dám nói ra điều mình nghĩ. \q1 \v 7 Tôi vẫn tự bảo: ‘Hãy nghe các vị cao niên nói, \q2 vì càng cao tuổi càng khôn ngoan.’ \q1 \v 8 Nhưng thật ra, chính tâm linh con người, \q2 hơi thở của Đấng Toàn Năng trong họ, \q2 mới ban cho họ sự khôn ngoan. \q1 \v 9 Người lớn tuổi chưa chắc đã khôn. \q2 Bậc trưởng lão chưa hẳn nắm vững công lý. \q1 \v 10 Vậy nên, xin hãy lắng nghe tôi, \q2 cho phép tôi được trình bày ý kiến. \b \q1 \v 11 Kìa, tôi vẫn chờ đợi suốt thời gian, \q2 lắng nghe thật kỹ những lý lẽ của các anh, \q2 lắng nghe các anh cân nhắc từng lời. \q1 \v 12 Vâng, tôi đã chú tâm lắng nghe, \q2 nhưng không một ai bác bẻ được Gióp \q2 hay đáp trả lý lẽ của ông ấy. \q1 \v 13 Xin đừng nói với tôi: ‘Ông ấy cũng khôn ngoan như chúng ta. \q2 Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể thuyết phục ông ấy’ \q1 \v 14 Nếu Gióp tranh luận với tôi, \q2 tôi sẽ không dùng lý lẽ của các anh mà đối đáp! \q1 \v 15 Các anh hãy ngồi yên đó, \q2 không phải nói thêm gì. \q1 \v 16 Lẽ nào tôi cứ phải đợi chờ, bây giờ các anh có thể yên lặng không? \q2 Chẳng lẽ tôi phải tiếp tục im tiếng sao? \q1 \v 17 Không, tôi sẽ phân giải phần của mình. \q2 Tôi sẽ trình bày ý kiến của mình. \q1 \v 18 Vì miệng tôi đã đầy tràn lời nói, \q2 và tâm linh thúc đẩy tôi phát ngôn; \q1 \v 19 Tôi bị dồn ép như rượu chưa khui, \q2 như bầu rượu mới sẵn sàng nổ tung! \q1 \v 20 Tôi phải lên tiếng để xả hơi, \q2 vì thế tôi xin mở miệng để đáp lời. \q1 \v 21 Tôi xin nói không vị nể, \q2 không bợ đỡ, nịnh hót một ai. \q1 \v 22 Vì nếu tôi cố gắng xu nịnh, \q2 Đấng Tạo Hóa tôi sẽ sớm tiêu diệt tôi.” \c 33 \s1 Ê-li-hu Trình Bày Lý Lẽ Chống Lại Gióp \q1 \v 1 “Vậy, xin lắng nghe lời tôi, thưa ông Gióp; \q2 xin chú ý những gì tôi trình bày. \q1 \v 2 Bây giờ, tôi đã bắt đầu nói, \q2 xin để tôi tiếp tục. \q1 \v 3 Tôi xin nói với tất cả lời chân thành; \q2 những lời thành thật từ đáy lòng. \q1 \v 4 Vì Thần Linh Đức Chúa Trời tạo dựng tôi, \q2 và hơi thở Đấng Toàn Năng truyền cho tôi sự sống. \q1 \v 5 Nếu có thể, xin anh vui lòng giải đáp; \q2 xin sắp xếp lý lẽ và giữ vững lập trường. \q1 \v 6 Đây, anh và tôi đều thuộc về Đức Chúa Trời.\f + \fr 33:6 \fr*\ft Ctd Kìa, trước mặt Đức Chúa Trời, tôi cũng như ông: tôi cũng được dựng nên bằng đất sét (ML)\ft*\f* \q2 Tôi cũng từ đất sét mà ra. \q1 \v 7 Vậy anh không cần phải sợ hãi tôi. \q2 Tôi sẽ không áp lực anh đâu.\f + \fr 33:7 \fr*\ft Ctd tôi không nặng tay với ông đâu \ft*\f* \b \q1 \v 8 Hẳn nhiên anh đã nói rõ ràng, \q2 và tôi đã nghe mỗi lời anh nói. \q1 \v 9 Anh nói: ‘Tôi là người trong sạch; tôi không có tội; \q2 tôi là người vô tội; không phạm một lỗi lầm nào. \q1 \v 10 Tuy nhiên, Đức Chúa Trời tìm dịp tố cáo tôi, \q2 Ngài đối xử với tôi như thù nghịch. \q1 \v 11 Chúa đặt hai chân tôi vào cùm, \q2 và theo dõi mọi bước đường tôi.’ \b \q1 \v 12 Nhưng ông đã sai, và tôi sẽ cho anh biết tại sao. \q2 Vì Đức Chúa Trời vĩ đại hơn loài người. \q1 \v 13 Tại sao anh mang lý lẽ chống nghịch Chúa? \q2 Tại sao nói Ngài không đáp lời phàn nàn của loài người? \q1 \v 14 Vì Đức Chúa Trời vẫn phán dạy nhiều lần nhiều cách, \q2 nhưng loài người chẳng để ý nghe. \q1 \v 15 Chúa phán trong giấc mơ, trong khải tượng ban đêm, \q2 khi người ta chìm sâu trong giấc ngủ \q2 nằm mê mãi trên giường mình. \q1 \v 16 Chúa thì thầm vào tai họ \q2 và làm họ kinh hoàng vì lời cảnh cáo.\f + \fr 33:16 \fr*\ft Nt ấn chứng, niêm phong \ft*\f* \q1 \v 17 Ngài khiến người quay lưng khỏi điều ác; \q2 Ngài giữ họ khỏi thói kiêu căng. \q1 \v 18 Ngài cứu người khỏi huyệt mộ, \q2 cứu mạng sống họ khỏi gươm đao. \q1 \v 19 Đức Chúa Trời sửa trị con người bằng nỗi đau trên giường bệnh, \q2 xương cốt hằng đau đớn rã rời. \q1 \v 20 Làm cho người ngao ngán thức ăn, \q2 và chán chê cao lương mỹ vị. \q1 \v 21 Thân thể ngày càng suy nhược, \q2 ốm o gầy mòn, chỉ còn da bọc xương. \q1 \v 22 Linh hồn đã đến cửa âm phủ; \q2 mạng sống sắp sửa bị tử thần rước đi. \b \q1 \v 23 Nhưng nếu có một thiên sứ từ trời xuất hiện— \q2 một sứ giả đặc biệt can thiệp cho người \q2 và dạy bảo người điều chính trực— \q1 \v 24 thương xót người và nói: \q1 ‘Hãy giải thoát người khỏi tử vong \q2 vì tôi đã tìm ra giá chuộc tội cho người.’ \q1 \v 25 Rồi thân thể người lại mịn màng như con trẻ, \q2 sức mạnh phục hồi như thuở xuân xanh. \q1 \v 26 Người sẽ cầu khẩn với Đức Chúa Trời, \q2 Ngài sẵn lòng ban ơn rộng lượng. \q1 Người vui mừng khi nhìn ngắm Đức Chúa Trời \q2 và Ngài khôi phục sự công chính cho người. \q1 \v 27 Người sẽ ra trước mặt mọi người và nói: \q2 ‘Tôi đã phạm tội và bẻ cong sự thật, \q2 nhưng không bị trừng phạt như tôi đáng phải lãnh. \q1 \v 28 Đức Chúa Trời cứu chuộc linh hồn tôi khỏi âm phủ \q2 và bây giờ tôi được sống để thấy ánh sáng.’ \b \q1 \v 29 Đúng vậy, Đức Chúa Trời làm những việc này \q2 lặp đi lặp lại cho loài người. \q1 \v 30 Chúa giải cứu họ khỏi diệt vong \q2 để họ thấy ánh sáng của sự sống. \q1 \v 31 Xin để ý, thưa Gióp, xin lắng nghe tôi, \q2 vì tôi còn vài điều để nói nữa. \q1 \v 32 Nếu vẫn còn lý lẽ, xin anh cứ đưa ra, \q2 Cứ nói, vì tôi muốn chứng tỏ anh là người công chính. \q1 \v 33 Nhưng nếu không, xin lắng nghe tôi. \q2 Xin yên lặng và tôi sẽ dạy cho anh điều khôn ngoan!” \c 34 \s1 Ê-li-hu Buộc Tội Gióp Kiêu Ngạo \p \v 1 Ê-li-hu tiếp lời: \q1 \v 2 “Xin lắng nghe tôi, hỡi những người khôn ngoan. \q2 Xin lưu ý, hỡi những người tri thức. \q1 \v 3 Gióp nói: ‘Tai thử lời nó nghe \q2 như miệng phân biệt giữa các thức ăn.’ \q1 \v 4 Vậy chúng ta hãy cùng nhận thức điều nào phải, \q2 hãy cùng học điều gì tốt lành. \q1 \v 5 Vì Gióp đã nói: ‘Tôi vô tội, \q2 nhưng Đức Chúa Trời từ khước lẽ công chính tôi. \q1 \v 6 Tôi vô tội, nhưng họ cho tôi là dối trá. \q2 Thương tích tôi không chữa được, dù tôi không có tội.’ \b \q1 \v 7 Hãy nói với tôi, có ai giống như Gióp, \q2 uống lời mỉa mai như nước lã? \q1 \v 8 Anh ấy chọn làm bạn với kẻ gian. \q2 Và dành thời gian cho kẻ ác. \q1 \v 9 Anh ấy còn cho rằng: ‘Tại sao phải tốn thời gian \q2 để làm vui lòng Đức Chúa Trời?’ \b \q1 \v 10 Xin lắng nghe tôi, thưa những người thông hiểu. \q2 Mọi người biết rằng Đức Chúa Trời không làm điều ác! \q2 Đấng Toàn Năng không hề làm điều sai. \q1 \v 11 Chúa thưởng phạt loài người tùy công việc họ làm. \q2 Chúa đối xử loài người tùy theo cách họ sống. \q1 \v 12 Thật Đức Chúa Trời không làm điều sai. \q2 Đấng Toàn Năng chẳng uốn cong công lý. \q1 \v 13 Ai ủy quyền cho Ngài quản trị địa cầu? \q2 Giao trách nhiệm cho Ngài điều khiển thế giới? \q1 \v 14 Nếu Đức Chúa Trời lấy lại Thần Linh Ngài \q2 và thu hồi hơi thở Ngài, \q1 \v 15 thì chúng sinh đều chết chung nhau \q2 và loài người trở về cát bụi. \b \q1 \v 16 Xin hãy nghe, nếu anh là người khôn ngoan. \q2 Xin chú ý những điều tôi nói. \q1 \v 17 Đức Chúa Trời có thể thống trị nếu Ngài ghét công lý không? \q2 Anh dám lên án quyền năng công chính sao? \q1 \v 18 Vì có ai nói với vua: ‘Ông là kẻ ác,’ \q2 và với người quý tộc: ‘Ông là kẻ bất công.’ \q1 \v 19 Huống chi Chúa không nể vì vua chúa, \q2 hoặc quan tâm đến người giàu hơn người nghèo. \q2 Vì tất cả đều do Ngài tạo dựng. \q1 \v 20 Trong khoảnh khắc, họ chết. \q2 Giữa đêm khuya họ qua đời; \q2 đều khuất bóng, không bàn tay người động đến. \b \q1 \v 21 Vì Đức Chúa Trời xem xét cách sống của loài người; \q2 Ngài theo dõi từng việc làm của họ. \q1 \v 22 Dù bóng tối mù mịt \q2 cũng không giấu nỗi việc ác trước mắt Chúa. \q1 \v 23 Không cần chờ đợi lâu, \q2 chúng ta sẽ đến trước Đức Chúa Trời trong ngày phán xét. \q1 \v 24 Chúa dùng sức mạnh đập tan người quyền thế, không cần tra hỏi, \q2 rồi lập người khác lên thay thế. \q1 \v 25 Chúa biết rõ việc họ làm, \q2 và ban đêm, Ngài đánh đổ họ và họ bị hủy diệt. \q1 \v 26 Chúa kéo họ xuống vì họ làm ác, \q2 trước mắt mọi người. \q1 \v 27 Vì họ trở mặt quay lưng với Chúa. \q2 Không quan tâm đến đường lối Ngài. \q1 \v 28 Họ khiến người nghèo khó khóc than thấu tận Đức Chúa Trời. \q2 Chúa nghe tiếng kêu van của người nghèo khó. \q1 \v 29 Nhưng khi Chúa im lặng, \q2 ai dám khuấy động Ngài? \q1 Còn khi Ngài ẩn mặt, không ai có thể tìm được Ngài, \q2 dù cá nhân hay một quốc gia. \q1 \v 30 Chúa ngăn kẻ vô đạo cầm quyền, \q2 và cho dân đen khỏi bị sập bẫy. \b \q1 \v 31 Tại sao con người không thưa với Đức Chúa Trời rằng: \q2 ‘Con hối hận, con không làm ác nữa’? \q1 \v 32 Hay ‘Con không biết con đã làm điều ác—xin cho con biết. \q2 Con còn gian ác nào, nguyện xin chừa từ đây’? \b \q1 \v 33 Có phải Đức Chúa Trời thưởng phạt theo điều kiện của anh không? \q2 Nhưng anh chẳng chịu ăn năn! \q2 Anh quyết định không phải tôi. \q2 Vậy nên hãy nói ra điều anh biết. \q1 \v 34 Những người thông sáng sẽ nói với tôi, \q2 cả những bậc khôn ngoan cũng sẽ nghe tôi nói: \q1 \v 35 ‘Gióp đã nói lời vô ý thức; \q2 lời lẽ anh ấy thiếu sự hiểu biết’ \q1 \v 36 Nguyện Gióp bị thử thách đến cùng \q2 vì đã nói như người gian ác. \q1 \v 37 Đã phạm tội, anh còn phản loạn; \q2 vỗ tay khinh nhạo, \q2 và gia tăng lời chống Đức Chúa Trời!” \c 35 \s1 Ê-li-hu Nhắc Nhở Gióp về Công Lý của Đức Chúa Trời \p \v 1 Ê-li-hu tiếp lời: \q1 \v 2 “Có phải anh nghĩ mình đúng khi nói rằng: \q2 ‘Tôi công chính trước mặt Đức Chúa Trời’? \q1 \v 3 Anh thắc mắc: ‘Tôi được lợi gì? \q2 Tôi được ích gì khi không phạm tội?’ \q1 \v 4 Tôi xin trình bày cho anh biết \q2 cùng tất cả bạn bè của anh. \q1 \v 5 Xin ngước mặt lên trời, nhìn cho rõ, \q2 ngắm mây bay lớp lớp tận trên cao. \q1 \v 6 Nếu anh phạm tội, có hại gì cho Đức Chúa Trời không? \q2 Dù nếu anh cứ gia tăng tội ác, \q2 thì có ảnh hưởng gì đến Ngài? \q1 \v 7 Nếu anh sống công chính, thì đó có phải là tặng phẩm dâng Chúa? \q2 Anh sẽ dâng lên Chúa điều gì? \q1 \v 8 Không, tội ác anh chỉ có thể hại người, \q2 và công đức anh có thể giúp tha nhân được ích. \b \q1 \v 9 Loài người kêu ca khi bị áp bức quá nhiều. \q2 Họ kêu cứu vì tay kẻ cường quyền. \q1 \v 10 Nhưng không ai hỏi: ‘Đức Chúa Trời, Đấng tạo nên tôi, \q2 Đấng cho những bài ca vang lên trong đêm tối, ở đâu? \q1 \v 11 Đấng khiến tôi thông minh hơn loài thú, \q2 và khôn ngoan hơn các chim trời ở nơi nào?’ \q1 \v 12 Khi họ kêu cứu, Đức Chúa Trời không đáp lại \q2 vì lòng kiêu căng ngạo mạn của họ. \q1 \v 13 Đức Chúa Trời không nghe lời cầu nguyện hư không \q2 Đấng Toàn Năng chẳng đoái nhìn lòng giả dối. \q1 \v 14 Thế mà anh dám nói anh không thấy Chúa, \q2 nhưng Ngài vẫn đem công lý đến, anh chỉ hãy chờ đợi. \q1 \v 15 Nhưng nay Chúa chưa nổi giận mà đoán phạt, \q2 vì Ngài bỏ qua những lời nói dại khờ. \q1 \v 16 Nhưng anh cứ luôn miệng nói lời vô nghĩa, thưa anh Gióp. \q2 Anh cứ lải nhải như người dại.” \c 36 \p \v 1 Ê-li-hu lại tiếp lời: \q1 \v 2 “Xin hãy kiên nhẫn, tôi sẽ tỏ cho anh sự thật. \q2 Vì tôi có lời bênh vực Đức Chúa Trời! \q1 \v 3 Tôi sẽ vận dụng mọi nguồn tri thức \q2 vì công chính của Đấng Tạo Hóa tôi. \q1 \v 4 Tôi chỉ dùng những lời chân thật, \q2 vì tôi là người tri thức đang ở với ông. \b \q1 \v 5 Đức Chúa Trời thật quyền năng, Ngài không khinh bỉ một ai! \q2 Ngài thấu triệt ngọn nguồn mọi sự, \q1 \v 6 Ngài không bảo trì mạng sống kẻ ác, \q2 nhưng bảo vệ quyền lợi người khổ đau. \q1 \v 7 Chúa chăm sóc những người công chính, \q2 đặt họ ngồi với bậc quân vương, \q2 vào địa vị cao sang bền vững. \q1 \v 8 Nếu có ai mắc vòng tù tội \q2 hoặc bị cơn hoạn nạn đau thương, \q1 \v 9 Ngài chỉ cho họ biết lý do, \q2 Ngài chỉ những tội lỗi kiêu căng của họ. \q1 \v 10 Họ được Chúa quan tâm, \q2 và truyền họ mau lìa bỏ đường tà. \b \q1 \v 11 Nếu biết lắng nghe và đầu phục Đức Chúa Trời, \q2 họ sẽ được hưởng phước hạnh suốt đời sống mình. \q1 \v 12 Nhưng nếu cứ khước từ, ngoan cố, \q2 họ sẽ chết trong cuộc binh đao \q2 và chết như loài vô tri thức. \q1 \v 13 Lòng vô đạo tích trữ cơn thịnh nộ. \q2 Dù khi Chúa hình phạt họ, \q2 họ không tiếng kêu la xin Ngài cứu giúp. \q1 \v 14 Giữa chừng xuân, họ ra người thiên cổ, \q2 chấm dứt cuộc đời với bọn dâm ô! \q1 \v 15 Nhưng Chúa dùng tai ách cứu người gặp nạn. \q2 Dùng nghịch cảnh tỉnh thức con người. \b \q1 \v 16 Đức Chúa Trời đưa anh ra khỏi nơi nguy hiểm, thưa anh Gióp, \q2 đưa anh đến chốn thảnh thơi. \q2 Cho anh hưởng cao lương mỹ vị. \q1 \v 17 Nhưng anh cứ biện luận điêu ngoa. \q2 Nên anh phải mang hình, chịu phạt. \q1 \v 18 Xin thận trọng, đừng để bị giàu sang lôi cuốn \q2 Cũng đừng trở bước vì tiền hối lộ hậu hĩnh. \q1 \v 19 Liệu tất cả của cải \q2 hay nỗ lực của anh \q2 có thể bảo vệ anh khỏi hoạn nạn được không? \q1 \v 20 Đừng mong ước đêm tối, \q2 vì đó là lúc con người bị hủy diệt. \q1 \v 21 Xin coi chừng! Đừng tẻ bước vào đường gian ác, \q2 vì Đức Chúa Trời sẽ sai cơn hoạn nạn đến \q2 để giữ anh khỏi đời sống gian tà.” \s1 Ê-li-hu Nhắc Nhở Gióp về Quyền Năng của Đức Chúa Trời \q1 \v 22 “Kìa, quyền năng Đức Chúa Trời thật cao cả. \q2 Có thầy nào như Ngài chăng? \q1 \v 23 Ai dám chỉ bảo Chúa phải làm gì, \q2 hoặc cả gan bảo: ‘Chúa đã làm điều sai trái.’ \q1 \v 24 Hãy nhớ tôn cao công việc quyền năng Ngài, \q2 và hát xướng bài ca chúc tụng, \q1 \v 25 Mọi người đã nhìn thấy những việc này, \q2 dù người ở những xứ xa xôi. \b \q1 \v 26 Kìa, Đức Chúa Trời vĩ đại hơn sự hiểu biết của chúng ta. \q2 Niên tuế Ngài không ai tính được. \q1 \v 27 Chúa hút các giọt nước lên trời, \q2 lọc hơi nước, làm mưa rơi xuống, \q1 \v 28 Các chòm mây tuôn đổ những cơn mưa, \q2 nhuần tưới cho mọi người được hưởng. \q1 \v 29 Ai hiểu được mây bủa giăng trên bầu trời như thế nào, \q2 và tiếng sấm vang rúng chuyển vòm trời? \q1 \v 30 Chúa trải rộng các lằn chớp nhoáng, \q2 và phủ che các đáy đại dương. \q1 \v 31 Đó là cách Chúa quản trị các nước, \q2 Ngài cung cấp lương thực dồi dào. \q1 \v 32 Tay Ngài phát ra sấm chớp \q2 và phóng tầm sét ra trúng mục tiêu. \q1 \v 33 Tiếng sấm rền báo tin giông bão đến; \q2 bầy gia súc cũng đoán biết tai ương.” \c 37 \q1 \v 1 “Tim tôi run rẩy trước cảnh tượng uy nghiêm. \q2 Như muốn nhảy vọt khỏi lồng ngực. \q1 \v 2 Hãy lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời vang rền như sấm, \q2 nghe kỹ âm thanh phát ra từ miệng Ngài \q1 \v 3 Chúa phát tiếng vang dội khắp các tầng trời, \q2 phóng chớp nhoáng đến tận cùng mặt đất. \q1 \v 4 Rồi có tiếng ầm ầm dữ dội, \q2 Chúa cất giọng uy nghiêm như sấm nổ, \q2 Ngài lên tiếng, cho chớp nhoáng mặc sức tung hoành. \q1 \v 5 Tiếng sấm kỳ diệu ấy là giọng nói của Đức Chúa Trời. \q2 Chúng ta không thể tưởng tượng được năng quyền vĩ đại của Ngài. \b \q1 \v 6 Chúa ra lệnh tuyết rơi khắp đất \q2 và truyền cho mưa rơi như thác đổ. \q1 \v 7 Chúa đóng dấu trên mỗi bàn tay \q2 để mọi người đều biết công việc Ngài \q1 \v 8 Lúc ấy, thú rừng rút lui về động \q2 và ở trong hang hố của mình. \q1 \v 9 Chúa sai bão tố thổi từ phương nam, \q2 và lạnh giá đến từ hướng bắc. \q1 \v 10 Hơi thở Đức Chúa Trời tạo ra nước đá, \q2 mặt hồ ao đông cứng thành băng. \q1 \v 11 Chúa chứa nước đầy ắp trong mây đen kịt, \q2 phân tán các cụm mây mang theo chớp nhoáng, \q1 \v 12 Chúa hướng dẫn các đám mây, \q2 vận hành khắp đất để thực thi mệnh lệnh Ngài. \q1 \v 13 Chúa khiến những việc xảy ra để sửa phạt loài người \q2 hay Ngài ban phước hạnh tuôn tràn. \b \q1 \v 14 Xin chú ý điều này, thưa anh Gióp. \q2 Hãy đứng yên, chiêm ngưỡng phép lạ diệu kỳ của Đức Chúa Trời! \q1 \v 15 Anh có biết làm thế nào Đức Chúa Trời điều khiển bão tố \q2 và cho sấm chớp rực sáng trong mây không? \q1 \v 16 Anh có hiểu cách Đức Chúa Trời giữ quân bình các áng mây bay, \q2 công tác diệu kỳ của Đấng Toàn Tri không? \q1 \v 17 Khi quần áo anh nóng ấm, \q2 và mặt đất yên tịnh dưới ngọn gió nam, \q1 \v 18 Chúa khiến mặt trời phản chiếu sức nóng như tấm gương đồng. \q2 Anh có thể làm được điều đó không? \b \q1 \v 19 Hãy dạy chúng tôi biết phải thưa gì với Đức Chúa Trời. \q2 Chúng tôi quá u mê, chẳng biết trình bày cớ sự. \q1 \v 20 Tôi nào dám thưa chuyện với Đức Chúa Trời? \q2 Phải chăng ai mở miệng sẽ bị nuốt mất? \q1 \v 21 Chúng ta không thể nhìn thẳng mặt trời, \q2 chiếu rọi trong bầu trời \q2 khi gió dẹp tan các đám mây. \q1 \v 22 Từ phương bắc ánh hoàng kim xuất phát, \q2 Đức Chúa Trời đến cách uy nghi đáng sợ. \q1 \v 23 Chúng ta không thể đến gần Đấng Toàn Năng; \q2 Đấng Siêu Việt, đầy uy lực, \q2 Đấng Chí Công, không làm điều bất chính. \q1 \v 24 Vì thế, cả nhân loại kính sợ Ngài! \q2 Ngài không lưu ý đến người tự cho mình khôn ngoan.” \c 38 \s1 Đức Chúa Trời Thách Thức Gióp \p \v 1 Rồi giữa cơn bão tố, Chúa Hằng Hữu đáp lời Gióp: \q1 \v 2 “Ngươi là ai mà dám dùng lời vô ý thức \q2 làm mờ ám kế hoạch Ta? \q1 \v 3 Hãy nai nịt như dũng sĩ, \q2 vì Ta sẽ hỏi con, \q2 và con phải trả lời. \b \q1 \v 4 Con ở đâu khi Ta đặt móng nền quả đất? \q2 Thử nói đi, nếu con đủ tri thức. \q1 \v 5 Ai đã định kích thước địa cầu \q2 và ai đo đạc mặt đất? \q1 \v 6 Nền địa cầu tựa trên gì, \q2 và ai đặt tảng đá móng cho nó \q1 \v 7 trong lúc các sao mai hợp ca \q2 và các thiên thần reo mừng? \b \q1 \v 8 Ai đặt cửa để khóa các đại dương \q2 khi chúng tràn lan từ vực thẳm, \q1 \v 9 và Ta dùng mây làm áo dài cho chúng, \q2 bọc chúng bằng bóng tối như tấm khăn? \q1 \v 10 Ta đặt ranh giới cho các đại dương \q2 với bao nhiêu cửa đóng, then gài. \q1 \v 11 Ta phán: ‘Đây là giới hạn, không đi xa hơn nữa. \q2 Các đợt sóng kiêu căng phải dừng lại!’ \b \q1 \v 12 Có bao giờ con ra lệnh cho ban mai xuất hiện \q2 và chỉ chỗ đứng cho bình minh rạng rỡ? \q1 \v 13 Có bao giờ con bảo ánh dương trải ra đến tận cuối chân trời, \q2 để chấm dứt đêm trường tội ác? \q1 \v 14 Khi ánh sáng đến gần, \q2 mặt đất đổi thay như đất sét dưới con dấu đồng; \q2 như chiếc áo vừa nhuộm màu sặc sỡ. \q1 \v 15 Ánh sáng tố cáo hành tung bọn gian tà, \q2 và chận đứng những cánh tay hung hãn. \b \q1 \v 16 Có khi nào con tìm đến tận nguồn biển cả? \q2 Và dò tìm đến đáy vực sâu? \q1 \v 17 Con có biết cổng âm phủ ở đâu? \q2 Có bao giờ con thấy cổng tử thần? \q1 \v 18 Con có nhận thức khoảng rộng của quả đất? \q2 Nếu con biết hãy trả lời Ta! \b \q1 \v 19 Con có biết cội nguồn ánh sáng, \q2 và tìm xem bóng tối đi đâu? \q1 \v 20 Con có thể đem nó trở về nhà không? \q2 Con có biết làm sao để đến đó? \q1 \v 21 Dĩ nhiên con biết tất cả điều này! \q2 Vì con đã sinh ra trước khi nó được tạo, \q2 và hẳn con có nhiều kinh nghiệm! \b \q1 \v 22 Con có vào được kho chứa tuyết \q2 hoặc tìm ra nơi tồn trữ mưa đá? \q1 \v 23 (Ta dành nó như vũ khí cho thời loạn, \q2 cho ngày chinh chiến binh đao). \q1 \v 24 Đường nào dẫn đến nơi tỏa ra ánh sáng? \q2 Cách nào gió đông tỏa lan trên mặt đất? \b \q1 \v 25 Ai đào kênh cho mưa lũ? \q2 Ai chỉ đường cho sấm chớp? \q1 \v 26 Ai khiến mưa tưới tràn đất khô khan, \q2 trong hoang mạc không một người sống? \q1 \v 27 Ai cho đất tiêu sơ thấm nhuần mưa móc, \q2 và cho cỏ mọc xanh rì cánh đồng hoang? \b \q1 \v 28 Phải chăng mưa có cha? \q2 Ai sinh ra sương móc? \q1 \v 29 Ai là mẹ nước đá? \q2 Ai sinh ra những giọt sương từ trời? \q1 \v 30 Nước đông cứng như đá tảng, \q2 mặt vực thẳm cũng đóng băng. \b \q1 \v 31 Con có thể di chuyển các vì sao— \q2 buộc chặt chòm sao Thất Tinh? \q2 Hoặc cởi dây trói chòm sao Thiên Lang không? \q1 \v 32 Con có thể khiến các quần tinh di chuyển theo mùa\f + \fr 38:32 \fr*\ft Ctd con có thể đem các tinh tú ra cho đúng thì tiết không?\ft*\f* không \q2 hay dẫn đường chòm Hùng Tinh với đàn con nó? \q1 \v 33 Con có biết các định luật của trời? \q2 Và lập quyền thống trị trên khắp đất? \b \q1 \v 34 Con có thể gọi mây \q2 để tạo thành mưa không? \q1 \v 35 Con có quyền truyền bảo sấm sét, \q2 cho chúng đi và trình lại: ‘Có chúng tôi đây!’ \q1 \v 36 Ai đặt sự khôn ngoan trong tâm hồn \q2 và ban sự thông sáng cho tâm trí? \q1 \v 37 Ai đủ trí khôn để đếm các cụm mây? \q2 Ai có thể nghiêng đổ các vò nước trên trời, \q1 \v 38 khi bụi kết cứng lại, \q2 và đất thịt dính chặt với nhau. \b \q1 \v 39 Con có thể đi săn mồi cho sư tử, \q2 hoặc cung ứng thức ăn cho con nó no nê, \q1 \v 40 khi chúng nằm trong hang động \q2 hoặc rình mồi trong rừng sâu không? \q1 \v 41 Ai cung cấp lương thực nuôi đàn quạ, \q2 lúc quạ con kêu cầu Đức Chúa Trời, \q2 và lang thang kiếm chẳng ra mồi?” \c 39 \s1 Đức Chúa Trời Tiếp Tục Thách Thức \q1 \v 1 “Con có biết mùa nào dê rừng sinh nở? \q2 Có quan sát hoàng dương đẻ con không? \q1 \v 2 Con có biết chúng mang thai mấy tháng? \q2 Có biết giờ chúng chuyển bụng sinh con? \q1 \v 3 Rồi chúng cúi mình sinh đàn con nhỏ, \q2 mong thoát cơn đau quặn thắt. \q1 \v 4 Đàn con lớn lên giữa đồng hoang, \q2 rồi rời nhà đi chẳng bao giờ trở lại. \b \q1 \v 5 Ai cho lừa rừng được tự do? \q2 Ai cho nó thoát khỏi vòng cương tỏa? \q1 \v 6 Ta ban cho nó hoang mạc làm nhà; \q2 đất mặn đồng chua làm chỗ ở. \q1 \v 7 Ồn ào đô thị nó cười chê, \q2 tiếng hò hét của người đánh xe, nó không để ý. \q1 \v 8 Các ngọn núi nó coi là đồng cỏ, \q2 là nơi nó tìm các ngọn lá non xanh. \b \q1 \v 9 Bò rừng có bao giờ phục vụ con? \q2 Hoặc chịu ngủ suốt đêm trên máng cỏ? \q1 \v 10 Bò rừng có chịu cho con cột vào cày không? \q2 Hoặc ngoan ngoãn kéo bừa trong trũng? \q1 \v 11 Mặc dù sức nó mạnh, nhưng con có tin cậy không? \q2 Con có tin cậy để giao việc nặng nhọc cho nó không? \q1 \v 12 Con có tin rằng nó sẽ trở lại, \q2 và đem ngũ cốc về sân đạp lúa của con không? \b \q1 \v 13 Đà điểu đập cánh oai hùng, \q2 nhưng không xứng bằng bộ cánh con cò. \q1 \v 14 Vì nó bỏ mặc trứng mình dưới đất, \q2 để sức nóng của đất ấp trứng. \q1 \v 15 Nó không lo lắng có một bàn chân có thể đạp trúng \q2 hoặc thú rừng có thể giẫm lên. \q1 \v 16 Đà điểu thật tàn nhẫn với đàn con, \q2 như chúng không phải là con mình. \q2 Chẳng đoái hoài nếu chúng chết đi. \q1 \v 17 Vì Đức Chúa Trời tước đi sự khôn ngoan của nó. \q2 Ngài không cho nó sự hiểu biết nào. \q1 \v 18 Nhưng bất cứ khi nào nó phóng chạy, \q2 nó cười nhạo cả ngựa lẫn người cưỡi ngựa. \b \q1 \v 19 Con có ban sức mạnh cho ngựa, \q2 hay phủ lên cổ nó bằng một cái bờm không? \q1 \v 20 Con có khiến nó nhảy như châu chấu không? \q2 Tiếng hí uy oai nghiêm thật kinh hoàng! \q1 \v 21 Vó ngựa xoáy sâu trong đất và tự hào về sức mạnh \q2 khi nó xung phong ra chiến trường \q1 \v 22 Nó coi thường đe dọa, bất chấp hiểm nguy. \q2 Trước lưỡi gươm nó chẳng hề né tránh. \q1 \v 23 Phía trên nó, bao tên kêu lách tách, \q2 giáo và lao sáng ngời dưới ánh nắng. \q1 \v 24 Nó hầm hầm dậm nát đất như điên \q2 và nó liền xông tới khi nghe kèn hiệu lệnh. \q1 \v 25 Nó hí vang khi nghe tiếng thổi kèn. \q2 Nó đánh hơi cuộc xáp chiến từ xa. \q2 Tiếng chỉ huy ra lệnh và tiếng ồn của đoàn quân. \b \q1 \v 26 Có phải nhờ khôn ngoan của con mà diều hâu bay vút lên \q2 và tung cánh trực chỉ phương nam không? \q1 \v 27 Phải chăng con ra lệnh cho đại bàng, \q2 vượt trên các vách núi cao để làm tổ? \q1 \v 28 Dùng vầng đá làm nơi cư ngụ, \q2 lót tổ tận trên vách đá vững vàng \q1 \v 29 Từ trên ấy, nó rình mồi săn bắt, \q2 mắt nó nhìn bao quát thật xa. \q1 \v 30 Đàn con nó cũng quen hút máu. \q2 Vì nơi đâu có xác chết là nó đến ngay.” \c 40 \p \v 1 Chúa Hằng Hữu phán bảo Gióp: \q1 \v 2 “Phải chăng con vẫn muốn đấu lý với Đấng Toàn Năng? \q2 Con có câu trả lời không mà dám tranh luận với Đức Chúa Trời?” \s1 Gióp Đáp Lời Chúa Hằng Hữu \q1 \v 3 Bấy giờ, Gióp kính cẩn thưa với Chúa Hằng Hữu: \b \q1 \v 4 “Con chẳng ra gì—làm sao con có thể tìm được lời đối đáp? \q2 Con chỉ biết lấy tay che miệng. \q1 \v 5 Con đã nói quá nhiều lời rồi. \q2 Con không còn gì để nói nữa.” \s1 Chúa Hằng Hữu Thách Thức Gióp Lần Nữa \p \v 6 Lúc ấy, Chúa Hằng Hữu phán bảo Gióp trong cơn lốc: \q1 \v 7 “Con hãy nai nịt gọn gàng như dũng sĩ\f + \fr 40:7 \fr*\ft Nt như một người\ft*\f* \q2 vì Ta có vài câu hỏi cho con, \q2 và con phải trả lời. \b \q1 \v 8 Con dám phủ nhận công lý Ta, \q2 và lên án Ta để tự minh oan sao? \q1 \v 9 Có phải con mạnh như Đức Chúa Trời? \q2 Và giọng nói ầm ầm như tiếng sấm vang? \q1 \v 10 Hãy trang sức bằng vinh quang và huy hoàng, \q2 trang điểm bằng vinh dự và uy nghi. \q1 \v 11 Hãy cho nộ khí con bùng nổ. \q2 Hãy để cơn giận dâng lên chống lại những kẻ kiêu căng. \q1 \v 12 Hãy nhận dạng và hạ nhục những kẻ kiêu căng; \q2 chà đạp bọn gian tà trong sào huyệt chúng. \q1 \v 13 Chôn vùi chúng xuống bùn đen. \q2 Dìm mặt chúng vào nơi tăm tối. \q1 \v 14 Lúc ấy, Ta sẽ khen ngợi con, \q2 vì chính sức mạnh con đã cứu con. \b \q1 \v 15 Con hãy nhìn con tê giác,\f + \fr 40:15 \fr*\ft Có người dịch ra là trâu nước\ft*\f* \q2 mà Ta đã tạo dựng, như Ta đã tạo dựng con. \q2 Nó ăn cỏ như trâu bò. \q1 \v 16 Hãy xem sức mạnh nó dồn vào hai hông \q2 và năng lực nó tập trung trong các bắp thịt bụng. \q1 \v 17 Nó quật đuôi mạnh như cây bá hương. \q2 Gân bắp đùi đan chặt với nhau. \q1 \v 18 Xương nó mạnh như ống đồng. \q2 Cứng cáp như các thanh sắt. \q1 \v 19 Nó là tạo vật hàng đầu của tay Đức Chúa Trời, \q2 và chỉ có Đấng Tạo Hóa mới diệt được nó. \q1 \v 20 Các núi đồi cung cấp lương thực cho nó, \q2 tại nơi các dã thú chơi đùa. \q1 \v 21 Nó nằm nấp dưới hoa sen, \q2 ẩn mình dưới bụi lau sậy trong đầm lầy. \q1 \v 22 Lùm sen rậm rạp phủ bóng che, \q2 giữa cành liễu bên suối bao bọc nó. \q1 \v 23 Nó không bối rối bởi nước lụt dâng lên, \q2 cũng không hề gì khi nước Giô-đan chảy rốc vào miệng. \q1 \v 24 Không ai có thể dùng lưỡi câu mà bắt được, \q2 hoặc gài bẫy mà đâm thủng mũi nó và dẫn đi.” \c 41 \s1 Chúa Hằng Hữu Tiếp Tục Thách Thức \q1 \v 1 “Con có thể bắt Lê-vi-a-than\f + \fr 41:1 \fr*\ft Đây là con quái vật trong truyền thuyết phương Đông \ft*\f* bằng móc câu \q2 hay dùng dây kéo lưỡi nó được không? \q1 \v 2 Con có thể dùng dây bện bằng sậy mà xâu mũi, \q2 hoặc lấy chông mà chọc thủng hàm nó không? \q1 \v 3 Lẽ nào nó sẽ không xin con thương xót \q2 hay van nài lòng trắc ẩn của con? \q1 \v 4 Nó có bằng lòng lập giao ước với con, \q2 hoặc nép mình làm nô lệ cho con mãi? \q1 \v 5 Con có dám chơi với nó như loài chim, \q2 hoặc buộc nó lại cho trẻ con đùa giỡn? \q1 \v 6 Bạn bè con có mặc cả với nhau mua bán nó, \q2 và chia da xẻ thịt nó cho các nhà buôn? \q1 \v 7 Con có thể lấy sắt có ngạnh cắm đầy mình nó, \q2 hay lấy lao phóng cá mà đâm thủng đầu nó không? \q1 \v 8 Nếu con thử nắm lấy nó, \q2 con sẽ nhớ mãi và chẳng còn dám chơi dại như thế nữa. \q1 \v 9 Kìa trước mặt nó, hy vọng liền tan biến. \q2 Vừa thấy nó, người ta liền ngã gục. \q1 \v 10 Không có ai dám trêu chọc thủy quái, \q2 thì còn ai dám đương đầu với Ta? \q1 \v 11 Ai cho Ta vay mượn để đòi Ta hoàn trả? \q2 Vạn vật dưới vòm trời đều thuộc về Ta. \b \q1 \v 12 Ta phải nhắc đến sức mạnh nó, \q2 với các chân và thân hình đẹp đẽ. \q1 \v 13 Ai dám thử lột bộ da nó, \q2 hoặc mon men đến gần quai hàm nó không? \q1 \v 14 Ai dám cạy miệng nó ra? \q2 Vì hám răng nó thật đáng khiếp sợ! \q1 \v 15 Vảy trên lưng nó sắp lớp giống một hàng khiên, \q2 gắn liền nhau khin khít. \q1 \v 16 Chúng khớp chặt với nhau, \q2 không khí chẳng thể lọt qua. \q1 \v 17 Chúng kết dính vào nhau, bám sát lấy nhau. \q2 Không thể tách rời được. \b \q1 \v 18 Nó nhảy mũi, lóe ra tia sáng! \q2 Mắt nó rạng rỡ như ánh mắt rạng đông. \q1 \v 19 Miệng nó phun ngọn lửa cháy như đuốc; \q2 với những tia lửa rợn người. \q1 \v 20 Khói xông lên nghi ngút từ lỗ mũi, \q2 như nồi nước sôi trên ngọn lửa lau sậy. \q1 \v 21 Hơi thở nó nhóm lửa cho than cháy rực, \q2 vì miệng nó phun ra từng ngọn lửa. \b \q1 \v 22 Cổ nó chứa đầy năng lực, \q2 muôn loài khủng khiếp trước mặt nó. \q1 \v 23 Các bắp thịt nó cứng và chắc nịch, \q2 không tài nào lay chuyển nổi. \q1 \v 24 Quả tim nó cứng như đá, \q2 như thớt cối bằng hoa cương. \q1 \v 25 Khi nó đứng dậy, dũng sĩ liền khiếp đảm, \q2 tiếng nó khua động làm họ phách lạc hồn xiêu. \q1 \v 26 Không kiếm nào có thể chém đứt, \q2 giáo, đao, hay ngọn lao cũng không sờn. \q1 \v 27 Cây sắt trở thành cọng rơm \q2 và đồng đen biến ra gỗ mục. \q1 \v 28 Trước cung tên nó không hề chạy trốn. \q2 Đá bắn rào rào, nó coi như rơm khô. \q1 \v 29 Còn phi tiêu nó coi như cỏ rác \q2 và cười chê khinh miệt các mũi lao. \q1 \v 30 Vảy bụng nó nhọn bén như mảnh sành. \q2 Tạo những đường cày nơi vùng đồng lầy. \b \q1 \v 31 Nó khuấy động vực thẳm như nồi nước sôi sục. \q2 Biến đại dương ra lọ dầu thơm. \q1 \v 32 Nó đi qua còn để lại hào quang, \q2 khiến mặt biển trông như đầu tóc bạc. \q1 \v 33 Khắp địa cầu, không sinh vật nào sánh kịp, \q2 một tạo vật chẳng biết sợ là gì \q1 \v 34 Nó khinh dể những giống thú cao lớn. \q2 Nó là vua của những loài thú kiêu hãnh.” \c 42 \s1 Gióp Đáp Lời Chúa Hằng Hữu \p \v 1 Bấy giờ, Gióp thưa với Chúa Hằng Hữu: \q1 \v 2 “Con biết Chúa có quyền làm mọi việc \q2 và không ai có thể cản Ngài. \q1 \v 3 Chúa hỏi: ‘Người này là ai, mà dám dùng lời thiếu hiểu biết làm lu mờ ý của Ta?’ \q2 Lạy Chúa, con thật đã luận bàn những việc con không hiểu, \q2 những điều quá diệu kỳ vượt tầm tri thức loài người. \q1 \v 4 Chúa phán: ‘Hãy nghe và Ta sẽ phán! \q2 Ta có vài câu hỏi cho con, \q2 và con phải trả lời.’ \q1 \v 5 Trước kia tai con chỉ nghe nói về Chúa, \q2 nhưng bây giờ, con được thấy Ngài tận mắt. \q1 \v 6 Vì vậy, con xin rút lại mọi lời con đã nói, \q2 và ngồi trong tro bụi để tỏ lòng ăn năn.” \s1 Lời Kết: Chúa Hằng Hữu Ban Phước cho Gióp \p \v 7 Sau khi Chúa Hằng Hữu phán dạy Gióp, Ngài phán với Ê-li-pha, người Thê-man: “Cơn giận Ta nổi lên cùng ngươi và hai bạn ngươi, vì các ngươi không nói về Ta đúng đắn như Gióp, đầy tớ Ta, đã nói. \v 8 Vậy bây giờ, các ngươi hãy bắt bảy con bò đực và bảy con chiên đực đem đến Gióp, đầy tớ Ta, và dâng tế lễ thiêu cho chính các ngươi. Gióp, đầy tớ Ta, sẽ cầu thay cho các ngươi. Ta sẽ nhậm lời Gióp và không đối xử với các ngươi theo sự điên dại của các ngươi, khi các ngươi không nói về Ta đúng đắn như Gióp, đầy tớ Ta, đã nói.” \v 9 Vậy, Ê-li-pha, người Thê-man, Binh-đát, người Su-a, và Sô-pha, người Na-a-ma, đều đi làm đúng những điều Chúa Hằng Hữu đã phán dạy, và Chúa nhậm lời cầu xin của Gióp. \p \v 10 Ngay khi Gióp cầu thay cho các bạn hữu, Chúa Hằng Hữu liền phục hồi vận mệnh của Gióp. Chúa Hằng Hữu ban cho ông gấp đôi lúc trước. \v 11 Bấy giờ, tất cả anh em, chị em của ông, và tất cả bà con quen biết đều đến thăm và ăn mừng trong nhà ông. Họ chia buồn và an ủi ông về những thử thách tai ương Chúa Hằng Hữu đã đem lại. Mỗi người đều tặng ông một nén bạc và một chiếc nhẫn vàng. \p \v 12 Như thế, Chúa Hằng Hữu ban phước lành cho Gióp trong tuổi già còn nhiều hơn trong lúc thanh xuân. Bây giờ, tài sản của ông gồm có 14.000 chiên, 6.000 lạc đà, 1.000 đôi bò, và 1.000 lừa cái. \v 13 Chúa cũng cho ông sinh thêm bảy con trai và thêm ba con gái. \v 14 Ông đặt tên cho con gái đầu là Giê-mi-ma, thứ hai là Kê-xia, và thứ ba là Kê-ren Ha-búc.\f + \fr 42:14 \fr*\ft Trong tiếng Hê-bơ-rơ, tên của ba con gái ông Gióp rất đẹp và ý nghĩa. Giê-mi-ma nghĩa là “Bồ câu”; Kê-xia nghĩa là “Quế hương”; và Kê-ren ha-búc nghĩa là “Hợp phấn diệp.” \ft*\f* \v 15 Trong khắp vùng, không có ai đẹp bằng ba cô con gái của Gióp. Gióp cho ba con gái hưởng gia tài sản nghiệp như các con trai. \p \v 16 Gióp còn sống thêm 140 năm nữa, ông được thấy đến đời con, cháu, chắt, chít, tức đến thế hệ thứ tư. \v 17 Rồi ông qua đời, tuổi rất cao, hưởng trọn đời sống.