\id ISA - Biblica® Open Vietnamese Contemporary Bible 2015 (Biblica® Thiên Ban Kinh Thánh Hiện Đại) \ide UTF-8 \h Y-sai \toc1 Y-sai \toc2 Y-sai \toc3 Ysai \mt1 Y-sai \c 1 \p \v 1 Đây là khải tượng về Giu-đa và Giê-ru-sa-lem mà Tiên tri Y-sai, con A-mốt, đã thấy trong đời các Vua Ô-xia, Giô-tham, A-cha, và Ê-xê-chia làm vua Giu-đa. \s1 Sứ Điệp cho Một Dân Tộc Phản Loạn \q1 \v 2 Các tầng trời, hãy nghe! Đất, hãy lắng tai! \p Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán dạy: \q1 “Ta đã cưu mang, nuôi dưỡng đàn con, \q2 thế mà chúng nổi loạn chống nghịch Ta! \q1 \v 3 Bò còn biết chủ, \q2 lừa còn biết máng cỏ của chủ mình— \q2 nhưng Ít-ra-ên lại không biết sự chăm sóc của chủ. \q1 Dân Ta không nhận ra sự chăm sóc Ta dành cho họ.” \q1 \v 4 Khốn cho một nước tội lỗi— \q2 một dân lầm lỗi nặng nề. \q1 Họ là dòng dõi gian ác, \q2 con cái thối nát, chống bỏ Chúa Hằng Hữu. \q1 Họ khinh bỏ Đấng Thánh của Ít-ra-ên \q2 và lìa xa đường Chúa. \b \q1 \v 5 Tại sao các ngươi cứ phạm tội để chịu roi vọt? \q2 Các ngươi còn tiếp tục phản loạn mãi sao?\f + \fr 1:5 \fr*\ft Nt nổi loạn\ft*\f* \q2 Để cho đầu đau đớn, \q2 và lòng nát tan. \q1 \v 6 Các ngươi bị thương tích từ đỉnh đầu xuống bàn chân— \q2 toàn là vết bằm, lằn roi, và vết thương bị làm độc— \q2 chưa được xức dầu hay băng bó. \q1 \v 7 Đất nước bị tàn phá, \q2 các thành bị thiêu hủy. \q1 Quân thù cướp phá những cánh đồng ngay trước mắt các ngươi, \q2 và tàn phá những gì chúng thấy. \q1 \v 8 Giê-ru-sa-lem xinh đẹp\f + \fr 1:8 \fr*\ft Ctd Con gái Si-ôn\ft*\f* bị bỏ lại \q2 như chòi canh trong vườn nho, \q1 như lều canh vườn dưa sau mùa gặt, \q2 như thành bị vây. \q1 \v 9 Nếu Chúa Hằng Hữu Vạn Quân \q2 không chừa lại một ít người trong chúng ta, \q1 chắc chúng ta đã bị quét sạch như Sô-đôm, \q2 bị tiêu diệt như Gô-mô-rơ. \b \q1 \v 10 Hãy lắng nghe lời Chúa Hằng Hữu, \q2 hỡi những người lãnh đạo “Sô-đôm.” \q1 Hãy lắng nghe luật của Đức Chúa Trời chúng ta, \q2 hỡi những người “Gô-mô-rơ.” \p \v 11 Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Muôn vàn tế lễ của các ngươi có nghĩa gì với Ta? \q2 Ta chán các tế lễ thiêu bằng dê đực, mỡ thú vật mập, \q2 Ta không vui về máu của bò đực, chiên con, và dê đực. \q1 \v 12 Trong ngày ra mắt Ta, \q2 ai đòi hỏi các ngươi thứ này khi các ngươi chà đạp hành lang Ta? \q1 \v 13 Đừng dâng tế lễ vô nghĩa cho Ta nữa; \q2 mùi hương của lễ vật làm Ta ghê tởm! \q1 Cũng như ngày trăng mới, và ngày Sa-bát \q2 cùng những ngày đặc biệt để kiêng ăn— \q2 tất cả đều đầy tội lỗi và giả dối. \q1 Ta không chịu các ngươi cứ phạm tội rồi lại tổ chức lễ lạc. \q1 \v 14 Linh hồn Ta ghét những ngày trăng mới và lễ hội của các ngươi. \q2 Chúng làm Ta khó chịu. Ta mệt vì chịu đựng chúng! \q1 \v 15 Khi các ngươi chắp tay kêu xin, Ta sẽ chẳng nhìn. \q2 Khi các ngươi cầu nguyện rườm rà, Ta sẽ chẳng nghe, \q2 vì tay các ngươi đầy máu nạn nhân vô tội. \q1 \v 16 Hãy rửa đi, hãy làm cho sạch! \q2 Hãy loại bỏ việc ác khỏi mắt Ta. \q2 Từ bỏ những đường gian ác. \q1 \v 17 Hãy học làm lành. \q2 Tìm kiếm điều công chính. \q2 Cứu giúp người bị áp bức. \q2 Bênh vực cô nhi. \q2 Đấu tranh vì lẽ phải cho các quả phụ.” \p \v 18 Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Bây giờ hãy đến, để cùng nhau tranh luận. \q2 Dù tội ác các ngươi đỏ như nhiễu điều, \q2 Ta sẽ tẩy sạch như tuyết. \q2 Dù có đỏ như son, \q2 Ta sẽ khiến trắng như lông chiên. \q1 \v 19 Nếu các ngươi sẵn lòng vâng lời, \q2 các ngươi sẽ ăn mừng những sản vật tốt nhất của đất. \q1 \v 20 Nhưng nếu các ngươi ngoan cố và chống nghịch, \q2 các ngươi sẽ bị gươm của quân thù tàn sát. \q1 Ta, Chúa Hằng Hữu, đã phán vậy!” \s1 Giê-ru-sa-lem Bất Trung \q1 \v 21 Hãy nhìn Giê-ru-sa-lem, \q2 xưa là thành trung tín và công chính, \q2 nay là thành của lũ mãi dâm và sát nhân. \q1 \v 22 Xưa được quý như bạc, \q2 mà nay trở nên cặn bã. \q1 Xưa rất tinh khiết, \q2 mà nay như rượu bị pha nước. \q1 \v 23 Những người lãnh đạo ngươi đều phản loạn, \q2 thông đồng với phường trộm cướp. \q1 Tất cả đều ưa của hối lộ \q2 và chạy theo tài lợi, \q1 không chịu bênh vực người mồ côi, \q2 hay đấu tranh vì lẽ phải cho những quả phụ. \b \q1 \v 24 Vì thế, Chúa, là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, \q2 là Đấng Quyền Năng của Ít-ra-ên phán: \q1 “Ta sẽ tiêu diệt người đối địch Ta, \q2 và báo trả kẻ thù Ta. \q1 \v 25 Ta sẽ ra tay đánh ngươi, \q2 Ta sẽ khiến ngươi tan chảy và gạn bỏ những cặn bã. \q2 Ta sẽ luyện sạch các chất hỗn tạp nơi ngươi. \q1 \v 26 Rồi Ta sẽ lập lại các phán quan \q2 và các cố vấn khôn ngoan như ngươi đã từng có. \q1 Và một lần nữa, Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là Nhà Công Chính, \q2 là Thành Trung Nghĩa.” \b \q1 \v 27 Si-ôn sẽ được chuộc bằng công lý; \q2 những ai ăn năn sẽ được chuộc bằng công chính. \q1 \v 28 Nhưng bọn phản loạn và tội nhân sẽ bị tàn diệt, \q2 còn những ai chối bỏ Chúa Hằng Hữu sẽ bị diệt vong. \q1 \v 29 Các ngươi sẽ bị xấu hổ vì những cây sồi \q2 linh thiêng mà các ngươi đã ưa thích. \q1 Các ngươi sẽ bị thẹn thuồng \q2 vì các khu vườn mình đã chọn. \q1 \v 30 Các ngươi sẽ như cây sồi lá tàn héo, \q2 như vườn không có nước. \q1 \v 31 Những người mạnh sẽ như vỏ khô, \q2 công việc của người ấy như mồi lửa. \q1 Cả hai sẽ cùng cháy, \q2 và không ai còn dập tắt được nữa. \c 2 \s1 Chúa Sẽ Cai Trị \p \v 1 Đây là khải tượng mà Y-sai, con trai A-mốt, đã thấy về Giu-đa và Giê-ru-sa-lem: \q1 \v 2 Trong những ngày cuối cùng, \q2 ngọn núi nơi dựng Đền Thờ của Chúa Hằng Hữu \q2 sẽ nổi danh hơn tất cả— \q2 là nơi cao trọng nhất trên đất. \q1 Nó sẽ vượt cao hơn các núi đồi, \q2 và mọi dân tộc sẽ đổ về đó thờ phượng. \p \v 3 Nhiều dân tộc sẽ đến và nói: \q1 “Hãy đến, chúng ta hãy lên núi của Chúa Hằng Hữu, \q2 đến nhà Đức Chúa Trời của Gia-cốp. \q1 Tại đó Ngài sẽ dạy chúng ta đường lối Ngài \q2 và chúng ta sẽ đi trong các nẻo đường Ngài.” \q1 Vì luật lệ Chúa Hằng Hữu sẽ ra từ Si-ôn; \q2 lời Chúa ra từ Giê-ru-sa-lem. \q1 \v 4 Chúa Hằng Hữu sẽ phán xét giữa các nước \q2 và sẽ hòa giải nhiều dân tộc. \q1 Họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày, \q2 và lấy giáo rèn lưỡi liềm. \q1 Nước này sẽ không đánh nước khác, \q2 cũng không luyện tập về chiến tranh nữa. \s1 Cảnh Báo Ngày Phán Xét \q1 \v 5 Hãy đến, hỡi con cháu Gia-cốp, \q2 chúng ta bước đi trong ánh sáng của Chúa Hằng Hữu! \q1 \v 6 Vì Chúa Hằng Hữu đã bỏ dân Ngài, \q2 là con cháu của Gia-cốp, \q2 vì họ đầy mê tín dị đoan của phương Đông, \q2 và bói khoa cũng như người Phi-li-tin. \q2 Họ còn kết ước với con cái các dân ngoại. \q1 \v 7 Ít-ra-ên đầy dẫy bạc và vàng; \q2 có của cải nhiều vô tận. \q1 Đất của họ đầy ngựa; \q2 và vô số chiến xa. \q1 \v 8 Đất họ đầy thần tượng; \q2 dân chúng thờ lạy vật mình tạo \q2 do chính đôi tay mình làm ra. \q1 \v 9 Vậy bây giờ, họ sẽ cúi xuống, \q2 và tất cả sẽ hạ mình— \q2 xin Chúa đừng tha thứ họ. \q1 \v 10 Hãy chui vào trong hang đá. \q2 Trốn mình dưới cát bụi \q2 để tránh khỏi sự kinh khủng của Chúa Hằng Hữu \q2 và uy nghi rực rỡ của Ngài. \q1 \v 11 Sự tự cao của loài người sẽ hạ xuống, \q2 và kiêu ngạo của loài người sẽ bị hạ thấp. \q2 Chỉ một mình Chúa Hằng Hữu được tôn cao trong ngày phán xét. \b \q1 \v 12 Vì Chúa Hằng Hữu Vạn Quân \q2 có một ngày sửa trị. \q1 Ngài sẽ trừng phạt người kiêu căng, ngạo mạn, \q2 và chúng sẽ bị hạ xuống; \q1 \v 13 Chúa sẽ hạ các cây bá hương cao lớn trên Li-ban \q2 và tất cả cây sồi ở Ba-san. \q1 \v 14 Chúa sẽ san bằng các ngọn núi cao \q2 và tất cả đồi lớn; \q1 \v 15 Chúa sẽ làm đổ sụp các ngọn tháp cao \q2 và các thành lũy kiên cố. \q1 \v 16 Chúa sẽ tàn phá tất cả tàu thuyền Ta-rê-si \q2 và mọi con tàu lộng lẫy. \q1 \v 17 Sự tự cao của loài người sẽ hạ xuống, \q2 và kiêu ngạo của loài người bị hạ thấp. \q2 Chỉ một mình Chúa Hằng Hữu được tôn cao trong ngày phán xét. \b \q1 \v 18 Mọi thần tượng sẽ hoàn toàn biến mất. \q1 \v 19 Khi Chúa Hằng Hữu đứng lên \q2 làm trái đất rúng động, \q2 con người sẽ bò xuống hang sâu. \q1 Họ sẽ trốn trong các hang đá \q2 để tránh khỏi sự kinh khủng Chúa Hằng Hữu \q2 và uy nghi rực rỡ của Ngài. \q1 \v 20 Trong ngày phán xét, họ sẽ ném các tượng vàng và bạc \q2 mà họ đã tự làm cho mình để thờ. \q2 Họ sẽ để các tượng thần của mình cho chuột và dơi, \q1 \v 21 trong khi họ bò xuống hang động, \q2 và trốn giữa các khe đá. \q1 Họ cố gắng để tránh sự kinh khủng của Chúa Hằng Hữu \q2 và uy nghi rực rỡ của Ngài \q2 như khi Ngài đứng lên làm cho trái đất rúng động. \q1 \v 22 Đừng tin cậy loài người. \q2 Là loài chỉ có hơi thở trong mũi. \q2 Họ có giá trị gì đâu? \c 3 \s1 Chúa Xét Xử Giu-đa \q1 \v 1 Chúa, Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, \q2 sẽ cất đi khỏi Giê-ru-sa-lem và Giu-đa \q2 mọi thứ mà họ cần đến như: \q2 mỗi mẩu bánh và mỗi giọt nước, \q1 \v 2 tất cả anh hùng và chiến sĩ, \q2 quan án và tiên tri, \q2 thầy bói và trưởng lão, \q1 \v 3 quan chỉ huy quân đội và tướng lãnh, \q2 cố vấn, nghệ nhân, và chiêm tinh. \q1 \v 4 Ta sẽ khiến những bé trai lãnh đạo họ, \q2 và trẻ con cai trị họ. \q1 \v 5 Dân chúng áp bức nhau— \q2 người này hại người kia, \q2 láng giềng hại láng giềng. \q1 Thanh niên sẽ nổi lên chống người già, \q2 và người thấp hèn lấn lướt người tôn trọng. \p \v 6 Trong những ngày ấy, một người sẽ nói với anh em của mình: \q1 “Anh có áo choàng, anh hãy lãnh đạo chúng tôi! \q2 Hãy nhận trách nhiệm về đống đổ nát này!” \q1 \v 7 Nhưng người ấy đáp: \q2 “Không! Tôi không thể giúp được. \q1 Tôi không có bất cứ thức ăn hay y phục nào. \q2 Đừng lập tôi làm lãnh đạo!” \q1 \v 8 Bởi Giê-ru-sa-lem sẽ chao đảo, \q2 và Giu-đa sẽ suy sụp \q2 vì lời nói và hành động của họ chống lại Chúa Hằng Hữu. \q1 Họ thách thức Ngài trước mặt Ngài. \q1 \v 9 Sắc mặt họ đủ làm chứng cớ buộc tội họ. \q2 Họ phơi bày tội lỗi mình như người Sô-đôm, \q2 không hề giấu diếm. \q1 Khốn nạn cho họ! \q2 Họ đã chuốc lấy tai họa vào thân! \q1 \v 10 Hãy nói với những người tin kính rằng \q2 mọi sự sẽ tốt cho họ. \q1 Họ sẽ hưởng được kết quả của việc mình làm. \q1 \v 11 Nhưng khốn thay cho người gian ác, \q2 vì họ sẽ bị báo trả những gì chính họ gây ra. \q1 \v 12 Dân ta bị bọn trẻ áp bức \q2 và đàn bà cai trị họ. \q1 Ôi dân ta, lãnh đạo con đã dẫn con lầm lạc; \q2 họ đưa con vào đường sai trái. \q1 \v 13 Chúa Hằng Hữu ngự tại tòa phán xét \q2 Ngài đứng lên xét xử chúng dân! \q1 \v 14 Chúa Hằng Hữu đến để xét xử các trưởng lão \q2 và những người cai trị dân Ngài rằng: \q1 “Chính các ngươi đã làm tàn hại vườn nho Ta. \q2 Nhà các ngươi cất đầy vật trộm cướp từ người nghèo. \q1 \v 15 Sao các ngươi dám đàn áp dân Ta, \q2 nghiền nát mặt người nghèo vào bụi đất?” \q1 Chúa là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán vậy. \s1 Chúa Cảnh Cáo Giê-ru-sa-lem \p \v 16 Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Vì con gái Si-ôn kiêu kỳ: \q2 Nhướng cổ cao, \q1 liếc mắt trêu người, \q2 bước đi õng ẹo, \q2 khua chân vòng vàng nơi mắt cá. \q1 \v 17 Vì thế, Chúa sẽ làm cho đầu họ đóng vảy \q2 và Chúa Hằng Hữu sẽ cho con gái Si-ôn bị hói đầu. \q1 \v 18 Trong ngày phán xét \q2 Chúa sẽ lột hết những vật trang sức làm ngươi xinh đẹp \q1 như khăn quấn đầu, \q2 chuỗi hạt trăng lưỡi liềm, \q1 \v 19 hoa tai, xuyến, và khăn che mặt; \q1 \v 20 khăn choàng, vòng đeo chân, khăn thắt lưng, \q2 túi thơm, và bùa đeo; \q1 \v 21 nhẫn, ngọc quý, \q1 \v 22 trang phục dạ tiệc, áo dài, áo choàng, và túi, \q1 \v 23 gương soi, vải gai mịn, \q2 đồ trang sức trên đầu, và khăn trùm đầu. \q1 \v 24 Thay vì tỏa mùi thơm, ngươi sẽ bị hôi thối. \q2 Ngươi sẽ mang dây trói thay vì khăn thắt lưng, \q2 và mái tóc mượt mà của ngươi sẽ bị rụng hết. \q1 Ngươi sẽ mặc vải thô thay vì áo dài sặc sỡ. \q2 Sự hổ thẹn sẽ thay cho sắc đẹp của ngươi. \q1 \v 25 Những đàn ông trong thành sẽ bị giết bởi gươm, \q2 những anh hùng của ngươi sẽ chết nơi chiến trường. \q1 \v 26 Các cổng Si-ôn sẽ khóc lóc và kêu than. \q2 Thành phố sẽ như người đàn bà tàn héo, \q2 bị vứt trên đất.” \c 4 \p \v 1 Trong ngày ấy, có rất ít người nam sót lại nên bảy người nữ tranh giành một người nam, và nói: “Hãy cưới tất cả chúng tôi! Chúng tôi sẽ tự lo thực phẩm và quần áo. Chỉ xin cho chúng tôi mang tên họ chàng, để chúng tôi khỏi bị hổ nhục.” \s1 Lời Hứa Phục Hồi \q1 \v 2 Nhưng trong ngày ấy, chồi của Chúa Hằng Hữu \q2 sẽ đẹp đẽ và vinh quang; \q1 và hoa quả của đất sẽ là niềm hãnh diện và vinh quang \q2 của những người sống sót trong Ít-ra-ên. \q1 \v 3 Những ai còn lại trong Si-ôn \q2 sẽ được gọi là thánh— \q1 tức những người sống sót sau cuộc tàn phá Giê-ru-sa-lem \q2 và được ghi vào danh sách giữa vòng người sống. \q1 \v 4 Chúa sẽ chùi rửa nhơ nhuốc của Si-ôn xinh đẹp \q2 và sẽ làm sạch vết máu tại Giê-ru-sa-lem \q2 bằng hơi nóng thiêu cháy của thần xét xử. \q1 \v 5 Rồi Chúa Hằng Hữu sẽ tạo bóng râm trên Núi Si-ôn \q2 và trên hội chúng tụ họp tại đó. \q1 Ngài sẽ tạo một màn mây che suốt ngày \q2 và một ngọn lửa sáng ngời ban đêm, \q2 bao trùm trên khắp đất vinh quang. \q1 \v 6 Nó sẽ là một chiếc trại che nắng nóng ban ngày \q2 và là nơi trú ẩn để tránh bão táp mưa to. \c 5 \s1 Bài Ca về Vườn Nho của Chúa Hằng Hữu \q1 \v 1 Bấy giờ, tôi sẽ hát cho Người yêu quý của tôi \q2 một bài ca về vườn nho của Người: \q1 Người yêu quý của tôi có một vườn nho \q2 trên đồi rất phì nhiêu. \q1 \v 2 Người đào xới, lượm sạch đá sỏi, \q2 và trồng những gốc nho quý nhất. \q1 Tại nơi chính giữa, Người xây một tháp canh \q2 và đào hầm đặt máy ép nho gần đá. \q1 Rồi Người chờ gặt những quả nho ngọt, \q2 nhưng nó lại sinh ra trái nho hoang thật chua. \q1 \v 3 Hỡi cư dân ở Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, \q2 hãy phân xử giữa Ta và vườn nho của Ta. \q1 \v 4 Còn điều nào Ta phải làm thêm cho vườn nho của Ta \q2 mà Ta chưa làm chăng? \q1 Khi Ta mong những trái nho ngọt, \q2 thì nó lại sinh trái nho chua? \b \q1 \v 5 Này Ta cho biết ngươi biết điều Ta định làm cho vườn nho của Ta: \q2 Ta sẽ phá rào và để nó bị tàn phá. \q2 Ta sẽ đập đổ tường và để các loài thú giẫm nát. \q1 \v 6 Ta sẽ không cuốc xới, \q2 tỉa sửa nhưng để mặc cho gai gốc, \q2 chà chuôm mọc lên rậm rạp. \q1 Ta sẽ ra lệnh cho mây \q2 đừng mưa xuống trên vườn đó nữa. \b \q1 \v 7 Vì dân tộc Ít-ra-ên là vườn nho của Chúa Hằng Hữu Vạn Quân. \q2 Còn người Giu-đa là cây nho Ngài ưa thích. \q1 Chúa trông mong công bình, \q2 nhưng thay vào đó Ngài chỉ thấy đổ máu. \q1 Chúa trông đợi công chính, \q2 nhưng thay vào đó Ngài chỉ nghe tiếng kêu tuyệt vọng. \s1 Tội Lỗi và Sự Phán Xét Giu-đa \q1 \v 8 Khốn cho các ngươi là những người mua hết nhà này đến nhà khác, \q2 tậu hết ruộng gần đến ruộng xa, \q1 cho đến khi mọi người bị đuổi \q2 và ngươi sống một mình trên đất. \p \v 9 Nhưng tôi nghe Chúa Hằng Hữu Vạn Quân thề phán: \q1 “Nhiều ngôi nhà sẽ bị hoang vắng; \q2 nhiều dinh thự chẳng còn ai ở. \q1 \v 10 Mười mẫu vườn nho sẽ không sản xuất \q2 dù chỉ một thùng rượu. \q1 Gieo mười thùng lúa giống \q2 chỉ gặt được một thùng thóc.” \b \q1 \v 11 Khốn cho những ai dậy từ sáng sớm tìm rượu \q2 và dành cả đêm dài uống rượu đến say khướt. \q1 \v 12 Tiệc tùng của chúng có đầy rượu và âm nhạc— \q2 đàn cầm và đàn hạc, trống và sáo— \q1 nhưng chúng không bao giờ nghĩ về Chúa Hằng Hữu \q2 hay để ý đến những việc Ngài làm. \b \q1 \v 13 Cho nên, dân Ta sẽ bị lưu đày biệt xứ \q2 vì chúng không hiểu biết Ta. \q1 Những người quyền lực cao trọng sẽ bị chết đói \q2 và thường dân sẽ bị chết khát. \q1 \v 14 Vì thế, âm phủ liếm môi thèm khát, \q2 mở miệng thật rộng. \q1 Người giàu sang và quần chúng \q2 cùng những người gây náo nhiệt sẽ bị rơi xuống đó. \q1 \v 15 Loài người sẽ bị tiêu diệt, và dân chúng bị hạ thấp; \q2 kể cả con mắt của người kiêu ngạo cũng phải sụp xuống. \q1 \v 16 Nhưng Chúa Hằng Hữu Vạn Quân \q2 sẽ được suy tôn bằng công bình. \q1 Đức Chúa Trời thánh khiết sẽ bày tỏ công chính của Ngài. \q1 \v 17 Trong những ngày ấy, các chiên sẽ tìm những đồng cỏ tốt, \q2 những chiên mập béo và dê con sẽ được no tại những nơi hoang tàn. \q1 \v 18 Khốn cho người kéo tội lỗi bằng dây gian dối, \q2 và kéo gian ác như dùng dây thừng kéo xe! \p \v 19 Chúng còn dám thách thức Đức Chúa Trời và nói: \q1 “Xin nhanh chóng và thực hiện ngay công việc! \q2 Chúng tôi muốn thấy Chúa có thể làm gì. \q1 Hãy để Đấng Thánh của Ít-ra-ên thực thi công việc của Ngài, \q2 vì chúng tôi muốn biết đó là việc gì.” \b \q1 \v 20 Khốn cho những người gọi \q2 việc ác là thiện và việc thiện là ác, \q1 lấy tối làm sáng và lấy sáng làm tối, \q2 bảo đắng là ngọt và bảo ngọt là đắng. \q1 \v 21 Khốn cho những người tự cho mình là khôn ngoan \q2 và tự xem mình là thông sáng! \q1 \v 22 Khốn cho những người tự cho mình là anh hùng uống rượu \q2 và khoe khoang về tửu lượng của mình. \q1 \v 23 Chúng nhận của hối lộ rồi tha người gian ác, \q2 và chúng trừng phạt người vô tội. \q1 \v 24 Vì thế, như ngọn lửa thiêu đốt rơm rạ \q2 và cỏ khô chìm sâu trong ngọn lửa, \q1 vậy gốc rễ của chúng sẽ mục nát \q2 và bông trái chúng sẽ tiêu tan\f + \fr 5:24 \fr*\ft Ctd bay đi như bụi\ft*\f* \q1 Vì chúng đã bỏ luật pháp Chúa Hằng Hữu Vạn Quân; \q2 chúng khinh lờn lời Đấng Thánh của Ít-ra-ên. \q1 \v 25 Đó là tại sao cơn thịnh nộ của Chúa Hằng Hữu \q2 sẽ thiêu đốt dân Ngài. \q1 Chúa đã nâng tay đánh chúng. \q2 Núi non rúng động, \q2 và thây người như rác rưởi trên đường phố. \q1 Dù thế, cơn thịnh nộ Ngài chưa dứt. \q2 Tay Ngài vẫn còn trừng phạt chúng! \b \q1 \v 26 Chúa sẽ ra dấu cho các nước xa xôi \q2 và huýt sáo kêu gọi các dân tộc từ tận cùng trái đất. \q1 Chúng sẽ chạy nhanh hướng về Giê-ru-sa-lem. \q1 \v 27 Chúng sẽ không mệt nhọc hay vấp ngã. \q2 Không ai còn buồn ngủ hay ngủ gật. \q1 Cả dây nịt cũng không sút, \q2 hay giày dép cũng không đứt. \q1 \v 28 Mũi tên của chúng bén nhọn \q2 và cung đều giương ra sẵn sàng; \q1 móng ngựa cứng như đá lửa, \q2 và bánh xe như gió lốc. \q1 \v 29 Chúng kêu gầm như sư tử, \q2 và rống như sư tử tơ. \q1 Chúng gầm gừ khi vồ lấy mồi và tha đi, \q2 tại đó không ai có thể cứu nổi chúng. \q1 \v 30 Chúng sẽ gầm thét \q2 trên những nạn nhân của mình trong ngày hủy diệt \q2 như tiếng gầm của biển. \q1 Nếu ai nhìn vào đất liền, \q2 sẽ chỉ thấy tối tăm và hoạn nạn; \q2 ngay cả ánh sáng cũng bị những đám mây làm lu mờ. \c 6 \s1 Y-sai Thấy Chúa và Nhận Nhiệm Vụ \p \v 1 Năm Vua Ô-xia qua đời, tôi thấy Chúa. Ngài ngồi trên ngôi cao vời và áo Ngài đầy khắp Đền Thờ. \v 2 Bên trên Ngài có các sê-ra-phim, mỗi sê-ra-phim có sáu cánh. Hai cánh che mặt, hai cánh phủ chân, và hai cánh để bay. \v 3 Các sê-ra-phim cùng nhau tung hô rằng: \q1 “Thánh thay, thánh thay, thánh thay là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân! \q2 Khắp đất tràn đầy vinh quang Ngài!” \m \v 4 Tiếng tung hô đó làm rung chuyển các cột trụ, ngạch cửa, và Đền Thờ đầy khói. \p \v 5 Thấy thế, tôi thốt lên: “Khốn khổ cho tôi! Đời tôi hết rồi! Vì tôi là người tội lỗi. Tôi có môi miệng dơ bẩn, và sống giữa một dân tộc môi miệng dơ bẩn. Thế mà tôi dám nhìn Vua là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân.” \p \v 6 Lúc ấy, một trong các sê-ra-phim bay đến, tay cầm than lửa hồng vừa dùng kềm gắp ở bàn thờ. \v 7 Sê-ra-phim đặt nó trên môi tôi và nói: “Hãy nhìn! Than này đã chạm môi ngươi. Bây giờ lỗi ngươi đã được xóa,\f + \fr 6:7 \fr*\ft Nt cất bỏ\ft*\f* tội ngươi được tha\f + \fr 6:7 \fr*\ft Nt che phủ\ft*\f* rồi.” \p \v 8 Tôi liền nghe tiếng Chúa hỏi: “Ta sẽ sai ai mang sứ điệp cho dân này? Ai sẽ đi cho chúng ta?” \p Tôi đáp: “Thưa con đây! Xin Chúa sai con!” \p \v 9 Chúa phán: “Hãy đi và nói với dân này: \q1 ‘Lắng nghe cẩn thận, nhưng không hiểu. \q2 Nhìn kỹ, nhưng chẳng nhận biết.’ \q1 \v 10 Hãy làm cho lòng dân này chai lì. \q2 Tai chúng nặng và mắt chúng nhắm lại. \q1 Và như thế, mắt chúng sẽ không thấy, \q2 tai chúng sẽ không nghe, \q1 lòng chúng cũng không hiểu được, \q2 và không quay về với Ta để được chữa lành.” \b \q1 \v 11 Tôi hỏi: “Thưa Chúa, cho đến bao giờ?” \p Chúa đáp: \q1 “Cho đến khi thành trống không, \q2 nhà của chúng bị hoang phế, \q2 và đất đai bị hoang vu; \q1 \v 12 cho đến khi Chúa Hằng Hữu đuổi mọi người đi, \q2 và đất nước Ít-ra-ên bị điêu tàn. \q1 \v 13 Dù nếu một phần mười dân còn sót trên đất, \q2 dân ấy cũng sẽ bị thiêu đốt. \q1 Nhưng như cây thông hay cây sồi bị đốn xuống mà còn chừa gốc, \q2 thì gốc Ít-ra-ên sẽ là giống thánh.” \c 7 \s1 Tiên Tri về A-cha \p \v 1 Khi A-cha, con Giô-tham, cháu Ô-xia, làm vua nước Giu-đa, Vua Rê-xin của nước Sy-ri và Phê-ca, con Rê-ma-lia, vua Ít-ra-ên, tiến đánh Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, họ không thắng được. \p \v 2 Nhà Giu-đa nghe tin rằng: “Sy-ri liên minh với Ít-ra-ên chống chúng ta!” Vì thế lòng vua và dân chúng đều sợ hãi, như cây rung trước giông bão. \p \v 3 Chúa Hằng Hữu phán bảo Y-sai: “Hãy dẫn Sê-gia, con trai con vào yết kiến Vua A-cha. Con sẽ gặp vua tại cuối cống dẫn nước đến hồ trên, gần con đường dẫn đến cánh đồng thợ giặt. \v 4 Con hãy nói với vua đừng lo lắng. Hãy nói rằng vua không cần sợ hãi vì cơn giận dữ dội của hai que gỗ cháy sắp tàn, tức Vua Rê-xin, nước Sy-ri và Phê-ca, con Rê-ma-lia. \v 5 Vua Sy-ri và Ít-ra-ên đã liên minh để tấn công vua, và nói: \v 6 ‘Chúng ta hãy tấn công Giu-đa và chiếm cứ nó cho chúng ta. Rồi chúng ta sẽ đặt con trai của Ta-bên lên làm vua Giu-đa.’ \v 7 Nhưng đây là điều Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: \q1 Mưu ấy sẽ không bao giờ xảy ra; \q2 việc ấy không bao giờ thực hiện được; \q1 \v 8 vì đầu của Sy-ri là Đa-mách, \q2 đầu Đa-mách là Rê-xin. \q1 Trong vòng sáu mươi lăm năm, \q2 Ít-ra-ên sẽ bị tiêu diệt và không còn là một dân nữa; \q1 \v 9 đầu của Ép-ra-im là Sa-ma-ri; \q2 đầu của Sa-ma-ri là Phê-ca, con Rê-ma-lia. \q1 Nếu các ngươi không tin, \q2 các ngươi sẽ không đứng vững được.” \s1 Dấu Lạ về Em-ma-nu-ên \p \v 10 Chúa Hằng Hữu lại phán với Vua A-cha: \v 11 “Hãy cầu xin Chúa Hằng Hữu là Đức Chúa Trời ngươi một dấu lạ, hoặc cao tận thiên đàng hoặc sâu dưới vực thẳm.” \p \v 12 Nhưng vua từ khước: “Tôi không xin dấu lạ, cũng không dám thử Chúa Hằng Hữu như thế.” \p \v 13 Rồi Y-sai nói: “Hãy nghe đây, nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền người ta chưa đủ sao mà nay còn dám làm phiền Đức Chúa Trời nữa? \v 14 Chính Chúa sẽ cho ngươi một dấu lạ. Này! Một trinh nữ sẽ chịu thai! \q2 Người sẽ sinh hạ một Con trai, \q1 họ sẽ gọi Ngài là Em-ma-nu-ên (nghĩa là ‘Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta’). \v 15 Con Trẻ sẽ ăn sữa đông và mật cho đến khi biết chọn điều đúng và khước từ điều sai. \v 16 Nhưng trước khi Con Trẻ ấy biết phân biệt thiện ác, thì đất nước của hai vua mà ông sợ đó sẽ bị bỏ hoang. \p \v 17 Rồi Chúa Hằng Hữu sẽ giáng trên vua, đất nước vua, và gia đình vua tai họa khủng khiếp nhất kể từ ngày Ít-ra-ên tách khỏi Giu-đa. Ngài sẽ sai vua A-sy-ri đem quân đến!” \p \v 18 Trong ngày ấy, Chúa Hằng Hữu sẽ kêu gọi đội quân từ phía nam Ai Cập và quân đội từ A-sy-ri. Chúng sẽ tụ chung quanh vua như những con ruồi và ong. \v 19 Chúng sẽ kéo đến từng bầy và đậu tại những nơi màu mỡ cũng như những thung lũng hoang vu, hang đá, và những nơi gai gốc. \v 20 Trong ngày ấy, Chúa sẽ dùng “lưỡi dao cạo” thuê từ bên kia Sông Ơ-phơ-rát—tức vua A-sy-ri—để cạo sạch mọi thứ: Đất của vua, mùa màng của vua, và dân của vua. \p \v 21 Trong ngày ấy, người làm nông chỉ có thể nuôi một con bò và hai con chiên hoặc dê. \v 22 Tuy nhiên, sẽ có đủ sữa cho mọi người vì chỉ còn vài người sót lại trong xứ. Họ sẽ ăn toàn sữa đông và mật. \v 23 Trong ngày ấy, những vườn nho tươi tốt, giá đáng cả 1.000 lạng bạc, sẽ trở nên những mảnh đất hoang vu và gai gốc. \v 24 Toàn bộ đất sẽ trở nên hoang vu và gai gốc, là vùng đất hoang dã để săn bắn. \v 25 Không ai dám đến các ngọn đồi đầy vườn tược xanh tươi trước kia, vì các ngọn đồi nay phủ toàn cỏ dại và gai gốc. Chỉ có bò, chiên, và dê đến gặm cỏ thôi. \c 8 \s1 Cuộc Xâm Lược Sắp Đến của A-sy-ri \p \v 1 Chúa Hằng Hữu phán với tôi: “Hãy làm một tấm bảng lớn và viết rõ tên này lên đó: Ma-he-sa-lan-hát-ba (nghĩa là: Mau cướp giật! Chiếm đoạt nhanh đi!)”. \v 2 Tôi sẽ gọi Thầy Tế lễ U-ri và Xa-cha-ri, con Giê-bê-rê-kia, cả hai là người tin cậy, làm nhân chứng cho việc làm này của tôi. \p \v 3 Sau đó, tôi ăn ở với vợ\f + \fr 8:3 \fr*\ft Vợ là một nữ tiên tri\ft*\f* mình, nàng có thai và sinh một con trai. Chúa Hằng Hữu phán cùng tôi: “Hãy đặt tên nó là Ma-he-sa-lan-hát-ba. \v 4 Vì trước khi đứa trẻ biết gọi ‘cha’ hay ‘mẹ,’ thì vua A-sy-ri sẽ cướp hết châu báu của Đa-mách và tài sản của Sa-ma-ri.” \p \v 5 Chúa Hằng Hữu lại phán bảo tôi: \v 6 “Sự chăm sóc của Ta cho người Giu-đa như nguồn nước dịu dàng Si-lô-ê, nhưng họ đã từ khước. Họ lại vui mừng về Vua Rê-xin và Vua Phê-ca. \v 7 Vậy nên, Chúa sẽ khiến lũ lụt khủng khiếp từ Sông Ơ-phơ-rát đến trên họ—tức vua A-sy-ri và quân đội\f + \fr 8:7 \fr*\ft Nt vinh quang\ft*\f* của ông. Cơn lũ này sẽ tràn ngập tàn phá tất cả sông, suối và \v 8 khắp lãnh thổ của Giu-đa cho đến khi nước ngập tận cổ. Cánh của nó sẽ dang ra, che kín cả xứ, hỡi Em-ma-nu-ên. \q1 \v 9 Hãy tụ họp lại, hỡi các dân, hãy kinh sợ. \q2 Hãy lắng nghe, hỡi những vùng đất xa xôi. \q2 Hãy chuẩn bị chiến đấu, nhưng các ngươi sẽ bị đập tan! \q2 Phải, hãy chuẩn bị chiến đấu, nhưng các ngươi sẽ bị đập tan! \q1 \v 10 Hãy triệu tập tham mưu, nhưng chúng sẽ không ra gì. \q2 Hãy thảo luận chiến lược, nhưng sẽ không thành công. \q2 Vì Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta!” \s1 Kêu Gọi Tin Cậy Chúa Hằng Hữu \p \v 11 Chúa Hằng Hữu mạnh mẽ cảnh cáo tôi đừng theo đường lối của dân này. Ngài phán: \q1 \v 12 “Đừng gọi mọi thứ là âm mưu, như họ đã làm. \q2 Đừng sợ điều họ sợ, và đừng kinh hoàng. \q1 \v 13 Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phải nên thánh trong đời sống con, \q2 Ngài là Đấng con phải kính sợ. \q2 Ngài là Đấng khiến con sợ hãi. \q1 \v 14 Ngài sẽ là nơi an toàn cho con. \q2 Nhưng đối với Ít-ra-ên và Giu-đa, \q1 Ngài sẽ là tảng đá gây vấp chân \q2 và hòn đá gây té ngã. \q1 Còn đối với dân chúng Giê-ru-sa-lem, \q2 Ngài sẽ là cạm bẫy và lưới bắt. \q1 \v 15 Nhiều người sẽ bị vấp chân và té ngã, \q2 không bao giờ đứng dậy được. \q1 Họ sẽ bị bắt và bị tiêu diệt.” \b \q1 \v 16 Hãy giữ gìn lời chứng của Đức Chúa Trời; \q2 giao lời dạy của Ngài cho những người theo tôi. \q1 \v 17 Tôi sẽ chờ đợi Chúa Hằng Hữu, Đấng ẩn mặt với nhà Gia-cốp. \q2 Tôi vẫn đặt niềm tin mình nơi Ngài. \p \v 18 Tôi và những đứa con mà Chúa Hằng Hữu ban cho là dấu hiệu và điềm báo trước cho Ít-ra-ên từ Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, Đấng ngự trong Đền Thờ Ngài trên Núi Si-ôn. \p \v 19 Nếu có ai nói với các ngươi: “Hãy cầu hỏi các đồng bóng và những người có thể hỏi linh hồn của người chết, là những kẻ nói thì thầm và lẩm bẩm, họ sẽ cho chúng ta biết phải làm gì.” Nhưng sao người ta không cầu hỏi Đức Chúa Trời? Sao người sống đi cầu hỏi người chết? \p \v 20 Hãy theo kinh luật và lời dạy của Đức Chúa Trời! Ai phủ nhận lời Ngài là người hoàn toàn chìm trong bóng tối. \v 21 Họ sẽ lưu lạc trên đất, khốn khổ và đói khát, Và vì họ đói khát, họ sẽ giận dữ và nguyền rủa cả vua và Đức Chúa Trời mình. Họ sẽ nhìn lên thiên đàng \v 22 và nhìn xuống đất, nơi ấy chỉ toàn là hoạn nạn, tối tăm, và sầu khổ hãi hùng. Họ sẽ bị hút vào cõi tối tăm mờ mịt đó. \c 9 \s1 Hy Vọng trong Đấng Mết-si-a \p \v 1 Tuy nhiên, thời kỳ tối tăm và tuyệt vọng sẽ không đến mãi mãi. Đất Sa-bu-luân và Nép-ta-li sẽ bị hạ xuống, nhưng trong tương lai, vùng Ga-li-lê của dân ngoại, nằm dọc theo đường giữa Giô-đan và biển, sẽ tràn đầy vinh quang. \q1 \v 2 Dân đi trong nơi tối tăm \q2 sẽ thấy ánh sáng lớn. \q1 Những ai sống trên đất dưới bóng tối của sự chết, \q2 một vầng sáng sẽ mọc lên. \q1 \v 3 Chúa sẽ mở rộng bờ cõi Ít-ra-ên \q2 và gia tăng niềm vui cho dân. \q1 Lòng dân hân hoan trước mặt Chúa \q2 như hân hoan trong mùa gặt \q2 và như ngày phân chia chiến lợi phẩm. \q1 \v 4 Vì Chúa đã đập tan ách đè nặng trên họ \q2 và cái đòn khiêng trên vai họ. \q1 Ngài đã bẻ gãy cây roi đánh họ, \q2 như khi Ngài đánh bại quân Ma-đi-an. \q1 \v 5 Mỗi đôi giày của chiến sĩ \q2 và quân phục quân đầy máu trong chiến trận sẽ bị thiêu đốt. \q1 Tất cả sẽ làm mồi cho lửa. \q1 \v 6 Vì một Hài Nhi sẽ được sinh cho chúng ta, \q2 một Con Trai được ban cho chúng ta. \q1 Quyền tể trị sẽ đặt trên vai Người. \q2 Và Người được tôn xưng là: \q2 Đấng Cố Vấn, Đấng Diệu Kỳ, Đức Chúa Trời Quyền Năng, \q2 Cha Vĩnh Hằng, và Chúa Hòa Bình. \q1 \v 7 Quyền cai trị và nền hòa bình của Người \q2 sẽ không bao giờ tận. \q1 Người sẽ ngự trên ngai Đa-vít và trên vương quốc Người, \q2 tể trị bằng công lý và thánh thiện cho đến đời đời. \q1 Nguyện lòng nhiệt thành của Chúa Hằng Hữu Vạn Quân \q2 sẽ thực hiện việc này! \s1 Cơn Giận của Chúa Hằng Hữu Nghịch Cùng Ít-ra-ên \q1 \v 8 Chúa đã phán nghịch cùng Gia-cốp; \q2 sự đoán phạt của Ngài sẽ giáng xuống Ít-ra-ên. \q1 \v 9 Người Ít-ra-ên và người Sa-ma-ri, \q2 là những người kiêu căng và ngang bướng, \q2 sẽ sớm biết sứ điệp ấy. \q1 \v 10 Họ nói: “Chúng ta sẽ thay gạch đã đổ nát bằng đá đẽo, \q2 và thay cây sung đã bị đốn bằng cây bá hương.” \b \q1 \v 11 Nhưng Chúa Hằng Hữu sẽ mang quân Rê-xin tấn công Ít-ra-ên \q2 và Ngài khiến tất cả kẻ thù của chúng nổi dậy. \q1 \v 12 Quân Sy-ri từ phía đông, \q2 và quân Phi-li-tin từ phía tây \q2 sẽ hả miệng nuốt sống Ít-ra-ên. \q1 Dù vậy, cơn giận của Chúa sẽ không giảm. \q2 Tay Ngài sẽ vẫn đưa lên. \q1 \v 13 Vì sau những trừng phạt này, dân chúng sẽ vẫn không ăn năn. \q2 Họ sẽ không tìm cầu Chúa Hằng Hữu Vạn Quân. \q1 \v 14 Vì thế, chỉ trong một ngày, Chúa Hằng Hữu sẽ cắt cả đầu lẫn đuôi, \q2 cả cành lá kè và cây sậy. \q1 \v 15 Những người lãnh đạo của Ít-ra-ên là đầu, \q2 những tiên tri dối trá là đuôi. \q1 \v 16 Vì những người lãnh đạo đã lạc lối. \q2 Nên họ đã dắt dân vào đường hủy diệt. \q1 \v 17 Đó là tại sao Chúa không ưa những thanh niên, \q2 cũng không thương xót các quả phụ và cô nhi. \q1 Vì chúng đều vô đạo và gian ác, \q2 miệng chúng đều buông lời càn dỡ. \q1 Nhưng cơn giận của Chúa Hằng Hữu sẽ không giảm. \q2 Tay Ngài sẽ vẫn đưa lên. \b \q1 \v 18 Sự bạo tàn sẽ cháy lên như ngọn lửa. \q2 Thiêu đốt không chỉ bụi cây và gai gốc, \q2 mà khiến cả khu rừng bốc cháy. \q1 Khói của nó sẽ bốc lên nghi ngút tận mây. \q1 \v 19 Đất sẽ bị cháy đen bởi cơn thịnh nộ của Chúa Hằng Hữu Vạn Quân. \q2 Dân chúng sẽ làm mồi cho lửa, \q2 và không ai biết thương tiếc dù là chính anh em mình. \q1 \v 20 Họ sẽ cướp láng giềng bên phải mà vẫn còn đói. \q2 Họ sẽ ăn nuốt láng giềng bên trái mà vẫn chưa no. \q2 Cuối cùng họ sẽ ăn chính con cháu mình. \q1 \v 21 Ma-na-se vồ xé Ép-ra-im, \q2 Ép-ra-im chống lại Ma-na-se, \q2 và cả hai sẽ hủy diệt Giu-đa. \q1 Nhưng dù vậy, cơn giận của Chúa Hằng Hữu vẫn không giảm. \q2 Tay Ngài sẽ vẫn đưa lên. \c 10 \q1 \v 1 Khốn cho những người làm luật bất công \q2 và những người ban hành luật áp bức. \q1 \v 2 Họ tước đoạt công bằng của người nghèo, \q2 và từ chối công lý của người khốn khó giữa dân Ta. \q1 Họ khiến quả phụ làm mồi ngon \q2 và cô nhi làm chiến lợi phẩm. \q1 \v 3 Các ngươi sẽ làm gì trong ngày Ta hình phạt, \q2 khi Ta giáng tai họa từ xa? \q1 Các ngươi sẽ cầu cứu với ai? \q2 Các ngươi sẽ giấu của cải nơi nào? \q1 \v 4 Các ngươi sẽ lom khom trong hàng tù nhân \q2 hay nằm giữa những người chết. \q1 Dù vậy, cơn giận của Chúa Hằng Hữu sẽ không giảm. \q2 Tay Ngài sẽ vẫn đưa lên. \s1 Sự Đoán Phạt A-sy-ri \q1 \v 5 “Khốn cho A-sy-ri là cây roi của cơn giận Ta. \q2 Ta dùng nó như cây gậy của cơn giận Ta. \q1 \v 6 Ta sẽ sai A-sy-ri hình phạt nước vô đạo, \q2 chống lại dân đã chọc giận Ta. \q1 A-sy-ri sẽ hành hạ chúng, \q2 chà đạp chúng như bụi đất dưới chân. \q1 \v 7 Tuy nhiên, vua A-sy-ri sẽ không hiểu nó là dụng cụ của Ta; \q2 trí của nó cũng không hiểu như vậy. \q1 Chương trình của nó chỉ đơn giản là tiêu diệt, \q2 chia cắt nhiều quốc gia. \p \v 8 Nó sẽ nói: \q1 ‘Mỗi tướng lãnh của ta sẽ là một vị vua. \q1 \v 9 Chúng ta sẽ tiêu diệt Canh-nô như Cát-kê-mít. \q2 Ha-mát sẽ sụp đổ trước chúng ta như Ác-bác. \q2 Và chúng ta sẽ đánh tan Sa-ma-ri như đã diệt Đa-mách. \q1 \v 10 Phải, chúng ta đã chiến thắng nhiều quốc gia, \q2 thần của chúng còn lớn hơn các thần của Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-ri. \q1 \v 11 Vì thế, chúng ta sẽ đánh bại Giê-ru-sa-lem và thần tượng của nó, \q2 như chúng ta đã hủy diệt Sa-ma-ri cùng thần của nó.’ ” \p \v 12 Sau khi Chúa dùng vua A-sy-ri để hoàn tất ý định của Ngài trên Núi Si-ôn và Giê-ru-sa-lem, Chúa sẽ trở lại chống nghịch vua A-sy-ri và hình phạt vua—vì vua đã kiêu căng và ngạo mạn. \v 13 Vua ấy đã khoác lác: \q1 “Bằng sức mạnh của tay ta đã làm những việc này. \q2 Với khôn ngoan của mình, ta đã lên kế hoạch. \q2 Ta đã dời đổi biên giới các nước, cướp phá các kho tàng. \q2 Ta đã đánh hạ vua của chúng như một dũng sĩ. \q1 \v 14 Tay ta đã chiếm châu báu của chúng \q2 và thu tóm các nước như người ta nhặt trứng nơi tổ chim. \q1 Không ai có thể vỗ cánh chống lại ta \q2 hay mở miệng kêu phản đối.” \b \q1 \v 15 Nhưng cây rìu có thể khoác lác hơn người cầm rìu chăng? \q2 Có phải cái cưa dám chống lại người cầm cưa? \q2 Hay cái roi có thể điều khiển người cầm roi? \q2 Hoặc cây gậy gỗ tự nó bước đi được sao? \q1 \v 16 Vì thế, Chúa là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, \q2 sẽ giáng họa giữa vòng dũng sĩ kiêu căng của A-sy-ri, \q2 và vinh hoa phú quý của chúng sẽ tàn như bị lửa tiêu diệt. \q1 \v 17 Chúa, Nguồn Sáng của Ít-ra-ên, sẽ là lửa; \q2 Đấng Thánh sẽ như ngọn lửa. \q1 Chúa sẽ tiêu diệt gai gốc và bụi gai bằng lửa, \q2 thiêu đốt chúng chỉ trong một đêm. \q1 \v 18 Chúa Hằng Hữu sẽ hủy diệt vinh quang của A-sy-ri \q2 như lửa hủy diệt một rừng cây trù phú; \q2 chúng sẽ bị tan xác như người kiệt lực hao mòn. \q1 \v 19 Tất cả vinh quang của rừng rậm, \q2 chỉ còn lại vài cây sống sót— \q2 ít đến nỗi một đứa trẻ cũng có thể đếm được! \s1 Hy Vọng cho Dân Chúa Hằng Hữu \q1 \v 20 Trong ngày ấy, những người còn lại trong Ít-ra-ên, \q2 những người sống sót của nhà Gia-cốp, \q1 sẽ không còn nương cậy vào các đồng minh \q2 là những người tìm cách tiêu diệt họ. \q1 Nhưng họ sẽ thật lòng tin cậy Chúa Hằng Hữu \q2 là Đấng Thánh của Ít-ra-ên. \q1 \v 21 Đoàn dân sống sót sẽ trở lại; \q2 phải, dân sót lại của nhà Gia-cốp sẽ quay về với Đức Chúa Trời Toàn Năng. \q1 \v 22 Nhưng dù người Ít-ra-ên đông như cát bờ biển, \q2 chỉ còn một số ít trong số họ sẽ quay về. \q1 Chúa Hằng Hữu đã định sự hủy diệt cách công chính cho dân Ngài. \q1 \v 23 Phải, Chúa là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, \q2 đã định sẵn sẽ hủy diệt đất nước này. \p \v 24 Vì thế, đây là điều Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán: “Hỡi dân Ta tại Si-ôn, đừng sợ quân đội A-sy-ri khi chúng áp bức các con bằng roi và gậy như người Ai Cập ngày xưa. \v 25 Chỉ một thời gian ngắn, cơn giận Ta trên các con sẽ chấm dứt, và cơn thịnh nộ Ta sẽ nổi lên để hủy diệt chúng.” \v 26 Chúa Hằng Hữu Vạn Quân sẽ đưa roi đánh chúng như Ngài đã đánh quân Ma-đi-an tại tảng đá Hô-rếp, và như Ngài đã đưa gậy lên để chôn vùi quân Ai Cập dưới lòng biển. \q1 \v 27 Trong ngày ấy, Chúa Hằng Hữu sẽ xức dầu cho dân Ngài, \q2 Ngài sẽ bẽ gãy ách nô lệ \q2 và cất gánh ấy khỏi vai họ. \q1 \v 28 Kìa, quân đội A-sy-ri đã chiếm đóng Ai-gia. \q2 Chúng tiến đánh Mi-gơ-rôn, \q2 và cất quân cụ của chúng tại Mích-ma. \q1 \v 29 Chúng vượt qua đèo \q2 và hạ trại tại Ghê-ba. \q1 Dân thành Ra-ma khiếp sợ. \q2 Toàn dân Ghi-bê-a, thành của Sau-lơ chạy trốn. \q1 \v 30 Người Ga-lim hãy thét lên! \q2 Hãy cảnh báo người La-ít. \q2 Ôi, thật tội nghiệp người A-na-tốt! \q1 \v 31 Dân thành Mát-mê-na chạy trốn. \q2 Dân thành Ghê-bim tìm chỗ lánh nạn. \q1 \v 32 Nhưng ngày ấy chúng dừng tại Nóp. \q2 Chúng sẽ vung tay nghịch cùng Núi Si-ôn xinh đẹp, đồi núi Giê-ru-sa-lem. \b \q1 \v 33 Nhưng kìa! Chúa là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, \q2 sẽ chặt các cây lớn của A-sy-ri với quyền năng vĩ đại! \q1 Chúa sẽ hạ những kẻ kiêu ngạo. \q2 Nhiều cây cao lớn sẽ bị đốn xuống. \q1 \v 34 Chúa sẽ dùng rìu đốn rừng rậm, \q2 Li-ban sẽ ngã trước Đấng Quyền Năng. \c 11 \s1 Nhánh từ Dòng Dõi Đa-vít \q1 \v 1 Một Chồi sẽ mọc ra từ nhà Đa-vít— \q2 một Cành từ rễ nó sẽ ra trái. \q1 \v 2 Thần của Chúa Hằng Hữu sẽ ngự trên Người— \q2 tức là Thần khôn ngoan và thông hiểu, \q1 Thần mưu lược và quyền năng, \q2 Thần tri thức và kính sợ Chúa Hằng Hữu. \q1 \v 3 Người ưa thích sự kính sợ Chúa Hằng Hữu. \q2 Người không xét xử theo những gì mắt thấy \q2 và cũng không quyết định bằng tai nghe, \q1 \v 4 Người sẽ lấy công chính phán xét người nghèo, \q2 và xử ngay thẳng cho người khốn khổ. \q1 Người sẽ đánh thế gian bằng cây gậy từ miệng Người, \q2 và lấy hơi thở từ nơi miệng mà tiêu diệt tội ác. \q1 \v 5 Người sẽ dùng đức công chính làm dây nịt \q2 và thành tín làm dây lưng. \b \q1 \v 6 Trong ngày ấy, muông sói sẽ ở với chiên con; \q2 beo nằm chung với dê con. \q1 Bò con và bò mập sẽ ở chung với sư tử, \q2 một đứa trẻ nhỏ sẽ dắt chúng đi. \q1 \v 7 Bò cái ăn chung với gấu. \q2 Bê và gấu con nằm chung một chỗ. \q2 Sư tử sẽ ăn cỏ khô như bò. \q1 \v 8 Trẻ sơ sinh sẽ chơi an toàn bên hang rắn hổ mang. \q2 Trẻ con sẽ thò tay vào ổ rắn độc mà không bị hại. \q1 \v 9 Sẽ không có đau đớn hay hủy diệt trên khắp núi thánh Ta, \q2 vì như nước phủ khắp biển, \q2 đất cũng sẽ đầy những người biết Chúa Hằng Hữu như vậy. \b \q1 \v 10 Trong ngày ấy, người thừa kế trên ngôi Đa-vít \q2 sẽ trở thành cờ cứu rỗi cho thế gian. \q1 Tất cả các dân tộc đều quy phục Người, \q2 nơi Người an nghỉ đầy vinh quang. \q1 \v 11 Trong ngày ấy, Chúa sẽ đưa tay Ngài ra một lần nữa, \q2 đem dân sót lại của Ngài trở về— \q2 là những người sống sót từ các nước A-sy-ri và phía bắc Ai Cập; \q2 phía nam Ai Cập, Ê-thi-ô-pi, và Ê-lam; \q1 Ba-by-lôn, Ha-mát, và các hải đảo. \q1 \v 12 Ngài sẽ dựng cờ giữa các nước \q2 và triệu tập những người lưu đày của Ít-ra-ên, \q2 quy tụ những người tản lạc của Giu-đa từ tận cùng trái đất. \b \q1 \v 13 Cuối cùng, sự ganh tị giữa Ít-ra-ên và Giu-đa sẽ chấm dứt. \q2 Họ sẽ không còn thù nghịch nhau nữa. \q1 \v 14 Họ sẽ cùng nhau đánh Phi-li-tin lật nhào xuống ở phía tây. \q2 Họ sẽ tấn công và cướp phá các xứ ở phía đông. \q1 Họ chiếm đóng các vùng đất của Ê-đôm và Mô-áp, \q2 người Am-môn sẽ quy phục họ. \q1 \v 15 Chúa Hằng Hữu sẽ vạch con đường cạn khô qua Biển Đỏ. \q2 Chúa sẽ vẫy tay Ngài trên Sông Ơ-phơ-rát, \q1 với ngọn gió quyền năng chia nó thành bảy dòng suối \q2 để người ta có thể đi ngang qua được. \q1 \v 16 Chúa sẽ mở một thông lộ cho dân sót lại của Ngài, \q2 tức dân sót lại từ A-sy-ri, \q1 cũng như đã làm một con đường cho Ít-ra-ên ngày xưa \q2 khi họ ra khỏi đất Ai Cập. \c 12 \s1 Bài Ca Tôn Vinh Chúa \p \v 1 Trong ngày ấy, ngươi sẽ nói: \q1 “Lạy Chúa Hằng Hữu! Con ngợi tôn Chúa, \q2 Chúa đã giận con, \q2 nhưng nay Ngài đã hết giận. \q1 Vì Ngài an ủi con. \q1 \v 2 Thật, Đức Chúa Trời đến để cứu con. \q2 Con sẽ tin cậy Ngài và không sợ hãi, \q1 Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời là sức mạnh của con \q2 và bài ca của con; \q1 Ngài đã ban cho con ơn cứu rỗi.” \b \q1 \v 3 Các ngươi sẽ vui mừng uống nước \q2 từ giếng cứu rỗi! \p \v 4 Trong ngày tuyệt diệu ấy, các ngươi sẽ hát: \q1 “Cảm tạ Chúa Hằng Hữu! Ngợi khen Danh Ngài! \q2 Hãy nói với các nước những công việc Ngài đã làm. \q2 Hãy cho họ biết quyền năng của Ngài thế nào! \q1 \v 5 Hãy ca ngợi Chúa Hằng Hữu, vì Ngài đã làm những việc diệu kỳ. \q2 Hãy để cả thế giới tán dương Ngài. \q1 \v 6 Hỡi toàn dân Giê-ru-sa-lem hãy lớn tiếng hân hoan ca ngợi Chúa! \q2 Vì sự vĩ đại là Đấng Thánh của Ít-ra-ên ngự giữa dân Ngài.” \c 13 \s1 Tiên Tri về Ba-by-lôn \p \v 1 Y-sai, con A-mốt nhận được sứ điệp về sự suy vong của Ba-by-lôn: \q1 \v 2 “Hãy dựng trụ cờ trên đỉnh núi trọi. \q2 Hãy kêu gọi đội quân chống lại Ba-by-lôn. \q2 Vẫy tay gọi chúng vào nơi giành cho người quyền quý. \q1 \v 3 Ta, Chúa Hằng Hữu, đã dành riêng những chiến sĩ cho nhiệm vụ này. \q2 Phải, Ta đã gọi những quân nhân mạnh mẽ thi hành cơn thịnh nộ của Ta, \q2 và họ sẽ hân hoan trong chiến thắng.”\f + \fr 13:3 \fr*\ft Ctd hân hoan trong sự cao trọng Ta\ft*\f* \q1 \v 4 Hãy nghe tiếng ồn ào trên các núi! \q2 Hãy lắng nghe, như tiếng một đoàn quân đông đảo. \q2 Đó là tiếng ồn ào và gào thét của các nước. \q2 Chúa Hằng Hữu Vạn Quân đã gọi đội quân này hợp lại. \q1 \v 5 Chúng kéo đến từ những nước xa xôi, \q2 từ tận cuối chân trời. \q1 Chúng là vũ khí của Chúa Hằng Hữu và cơn giận của Ngài. \q2 Với chúng Ngài sẽ hủy diệt cả trái đất. \q1 \v 6 Hãy than khóc, vì ngày của Chúa Hằng Hữu gần đến— \q2 là thời gian hủy diệt của Đấng Toàn Năng. \q1 \v 7 Vì thế, mọi tay đều yếu đuối. \q2 Mọi lòng đều tan chảy, \q1 \v 8 và người ta đều kinh hoàng. \q2 Đau đớn quặn thắt cầm giữ họ, \q2 như người đàn bà trong cơn chuyển dạ. \q1 Họ sửng sốt nhìn nhau, \q2 mặt họ đỏ như ngọn lửa. \b \q1 \v 9 Nhìn kìa, ngày của Chúa Hằng Hữu đang đến— \q2 là ngày khủng khiếp của cơn thịnh nộ và giận dữ mãnh liệt của Ngài. \q1 Đất sẽ bị làm cho hoang vu, \q2 và tất cả tội nhân sẽ bị hủy diệt. \q1 \v 10 Các khoảng trời sẽ tối đen trên họ; \q2 các ngôi sao sẽ không chiếu sáng nữa. \q1 Mặt trời sẽ tối tăm khi mọc lên, \q2 và mặt trăng sẽ không tỏa sáng nữa. \b \q1 \v 11 “Ta, Chúa Hằng Hữu, sẽ hình phạt thế giới vì gian ác \q2 và tội lỗi của nó. \q1 Ta sẽ tận diệt sự ngạo mạn của bọn kiêu căng \q2 và sẽ hạ thấp sự cao ngạo của kẻ bạo tàn. \q1 \v 12 Ta sẽ khiến số người sống sót hiếm hơn vàng— \q2 ít hơn vàng ròng Ô-phia. \q1 \v 13 Ta sẽ làm các tầng trời rúng động. \q2 Trái đất sẽ chạy lệch khỏi chỗ nó \q2 khi Chúa Hằng Hữu Vạn Quân tỏ cơn thịnh nộ của Ngài \q2 trong ngày Ngài giận dữ mãnh liệt.” \b \q1 \v 14 Mỗi người tại Ba-by-lôn sẽ chạy như hươu bị đuổi, \q2 như bầy chiên tản lạc không người chăn. \q1 Họ sẽ cố tìm về với dân tộc, \q2 và chạy trốn về quê hương. \q1 \v 15 Ai bị quân thù bắt được sẽ bị đâm, \q2 tất cả tù binh sẽ bị ngã dưới lưỡi gươm. \q1 \v 16 Con cái họ sẽ bị đánh chết trước mắt họ. \q2 Nhà cửa bị cướp, vợ họ bị hãm hiếp. \b \q1 \v 17 “Này, Ta sẽ khiến người Mê-đi chống lại Ba-by-lôn. \q2 Chúng không bị quyến dụ bởi bạc cũng không thiết đến vàng. \q1 \v 18 Cung tên chúng sẽ đập nát người trai trẻ. \q2 Chúng sẽ không xót thương hài nhi, \q2 và cũng không dung mạng trẻ con.” \b \q1 \v 19 Ba-by-lôn, viên ngọc của các vương quốc, \q2 niềm hãnh diện của người Canh-đê, \q2 sẽ bị Đức Chúa Trời lật đổ như Sô-đôm và Gô-mô-rơ. \q1 \v 20 Ba-by-lôn sẽ không bao giờ còn dân cư nữa. \q2 Từ đời này qua đời kia sẽ không có ai ở đó. \q1 Người A-rập sẽ không dựng trại nơi ấy, \q2 và người chăn chiên sẽ không để bầy súc vật nghỉ ngơi. \q1 \v 21 Thú dữ của hoang mạc sẽ ở trong thành đổ nát, \q2 và nhà cửa sẽ là nơi lui tới của loài thú hoang dã. \q1 Cú vọ sẽ sống giữa hoang vu, \q2 và dê rừng sẽ nhảy múa tại đó. \q1 \v 22 Lang sói sẽ tru trong thành trì, \q2 và chó rừng sẽ sủa trong đền đài xa hoa. \q1 Những ngày của Ba-by-lôn không còn nhiều; \q2 thời kỳ suy vong sẽ sớm đến. \c 14 \s1 Lời Tiên Tri về Vua Ba-by-lôn \p \v 1 Nhưng Chúa Hằng Hữu sẽ đoái thương nhà Gia-cốp. Một lần nữa, Chúa sẽ chọn Ít-ra-ên như tuyển dân của Ngài. Chúa sẽ cho họ được định cư tại quê hương mình. Nhiều ngoại kiều sẽ hiệp với nhà Ít-ra-ên. \v 2 Các nước trên thế giới sẽ giúp dân của Chúa Hằng Hữu hồi hương, và những ai đến sống trên đất họ sẽ phục vụ họ. Những ai đã bắt Ít-ra-ên làm tù binh sẽ bị bắt làm tù binh, và Ít-ra-ên sẽ thống trị những thù nghịch từng áp bức họ. \p \v 3 Trong ngày phước hạnh ấy, Chúa Hằng Hữu sẽ cho dân Ngài an nghỉ, không còn đau khổ, bối rối, và bị chủ nô đày đọa nữa, \v 4 các con sẽ hát bài ca này về vua Ba-by-lôn: \q1 “Người quyền lực sẽ bị hủy diệt. \q2 Phải, sự bạo ngược của ngươi sẽ chấm dứt. \q1 \v 5 Vì Chúa Hằng Hữu đã bẻ cây gậy của kẻ ác, \q2 và cây trượng của bọn thống trị. \q1 \v 6 Là kẻ đã đánh đập các dân không ngừng, \q2 và bạo ngược thống trị các nước trong cơn giận dữ \q2 với sự ngược đãi hà khắc. \q1 \v 7 Nhưng cuối cùng thế giới đều nghỉ ngơi và an bình. \q2 Bấy giờ mọi người cất tiếng hoan ca! \q1 \v 8 Cả đến các cây cao to nơi rừng xanh— \q2 là cây thông và bá hương Li-ban— \q2 cũng phải cất tiếng hát reo mừng: \q1 ‘Từ khi ngươi ngã xuống, \q2 không ai còn lên đốn ta nữa!’ \b \q1 \v 9 Trong nơi của cõi chết xôn xao khi ngươi đến. \q2 Các âm hồn của các lãnh đạo trên thế giới \q2 và các vua hùng mạnh phải đứng dậy để gặp ngươi. \p \v 10 Tất cả đều hỏi ngươi: \q1 ‘Bây giờ ngươi cũng yếu ớt như chúng ta! \q1 \v 11 Sự hùng mạnh và quyền lực của ngươi đã bị chôn với ngươi. \q2 Âm thanh của đàn hạc trong nơi ngươi sẽ ngưng. \q1 Giòi sẽ làm đệm ngươi, \q2 và sâu bọ làm mền đắp.’ \b \q1 \v 12 Hỡi sao mai, con trai của rạng đông, \q2 sao ngươi từ trời ngã xuống! \q1 Ngươi đã bị ném xuống đất, \q2 ngươi là kẻ hủy diệt các nước trên thế giới. \p \v 13 Ngươi tự nhủ trong lòng: \q1 ‘Ta sẽ lên trời và sẽ đặt ngai ta trên các ngôi sao của Đức Chúa Trời. \q2 Ta sẽ ngự ngai ta trên núi tụ tập đông người, \q2 trên những nơi cao nhất của phương bắc. \q1 \v 14 Ta sẽ lên cao hơn các đám mây \q2 và ta sẽ như Đấng Chí Cao.’ \q1 \v 15 Nhưng trái lại, ngươi sẽ bị đem xuống cõi chết, \q2 tận đáy vực sâu. \p \v 16 Những ai gặp sẽ nhìn ngươi chăm chú và hỏi: \q1 ‘Đây là kẻ có thể làm đảo lộn thế giới \q2 và xáo trộn các quốc gia\f + \fr 14:16 \fr*\ft Nt các vương quốc\ft*\f* sao? \q1 \v 17 Có phải đây là kẻ đã tàn phá thế giới \q2 và khiến nó trở nên hoang vu? \q1 Có phải đây là vua đã tiêu diệt các thành trên thế giới \q2 và chẳng bao giờ phóng thích tù binh không?’ \b \q1 \v 18 Tất cả vua chúa các nước đều được an táng \q2 long trọng trong lăng mộ của mình, \q1 \v 19 nhưng ngươi sẽ bị ném khỏi mồ mả như một cành cây mục, \q2 như xác chết bị giày đạp dưới chân, \q1 ngươi sẽ bị vùi trong một nắm mồ tập thể \q2 cùng những người bị giết trong trận chiến. \q1 Ngươi sẽ bị quăng vào đáy huyệt.\f + \fr 14:19 \fr*\ft Nt các hòn đá của vực thẳm\ft*\f* \q1 \v 20 Ngươi sẽ không được an táng với tổ tiên \q2 vì ngươi đã tiêu diệt đất nước mình \q2 và tàn sát dân mình. \q1 Con cháu của người ác \q2 sẽ không bao giờ được nhắc đến. \q1 \v 21 Hãy giết các con của chúng! \q2 Hãy để con chúng chết vì tội lỗi của cha chúng! \q1 Chúng sẽ không còn dấy lên và hưởng đất, \q2 xây thành khắp mặt đất nữa.” \p \v 22 Đây là điều Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán: \q1 “Ta, chính Ta sẽ đứng lên chống nghịch Ba-by-lôn! \q2 Ta sẽ tiêu diệt những kẻ sống sót, con cháu nó và dòng dõi về sau.” \q2 Chúa Hằng Hữu phán vậy. \q1 \v 23 “Ta sẽ khiến Ba-by-lôn thành nơi ở của cú vọ, \q2 đầy ao nước đọng và đầm lầy. \q1 Ta sẽ quét sạch đất bằng chổi hủy diệt. \q2 Ta, Chúa Hằng Hữu Vạn Quân đã phán vậy!” \s1 A-sy-ri Suy Vong \p \v 24 Chúa Hằng Hữu Vạn Quân đã thề: \q1 “Chương trình Ta sẽ được thi hành, \q2 ý định Ta sẽ được thực hiện. \q1 \v 25 Ta sẽ đánh tan quân A-sy-ri khi chúng vào Ít-ra-ên; \q2 Ta sẽ giẫm nát chúng trên ngọn núi Ta. \q1 Dân Ta sẽ không còn là nô lệ của chúng \q2 hay không cúi mình dưới ách nặng nề nữa. \q1 \v 26 Đây là chương trình Ta ấn định cho cả đất, \q2 và đây là cánh tay đoán phạt vung trên các nước. \q1 \v 27 Vì khi Chúa Hằng Hữu Vạn Quân đã phán— \q2 ai có thể thay đổi chương trình của Ngài. \q1 Khi tay Ngài đã vung lên, \q2 có ai dám cản ngăn?” \s1 Phi-li-tin Sụp Đổ \p \v 28 Lời tiên tri này đến với tôi vào năm Vua A-cha qua đời: \q1 \v 29 Hỡi Phi-li-tin! Đừng reo mừng \q2 khi cây roi đánh ngươi bị bẻ gãy— \q2 tức vua tấn công ngươi bị chết. \q1 Vì từ giống rắn ấy sẽ sinh ra nhiều rắn lục, \q2 và rắn lửa độc để hủy diệt ngươi! \q1 \v 30 Ta sẽ nuôi người nghèo trong đồng cỏ của Ta; \q2 người túng thiếu sẽ nằm ngủ bình an. \q1 Còn như ngươi, Ta sẽ diệt ngươi bằng nạn đói \q2 và những người sót lại của ngươi sẽ bị tàn sát. \q1 \v 31 Hãy than van nơi cổng! Hãy kêu khóc trong các thành! \q2 Hãy run sợ tan chảy, hỡi dân thành Phi-li-tin! \q2 Một đội quân hùng mạnh sẽ đến như luồng khói từ phía bắc. \q2 Chúng hăng hái xông lên chiến đấu. \p \v 32 Chúng tôi phải nói gì với người Phi-li-tin? Hãy bảo chúng: \q1 “Chúa Hằng Hữu đã vững lập Si-ôn. \q2 Nơi ấy, người khổ đau của dân Ngài đã tìm được nơi trú ẩn.” \c 15 \s1 Tiên Tri về Mô-áp \p \v 1 Đây là lời tiên tri về Mô-áp: \q1 Chỉ trong một đêm, thành A-rơ sẽ bị hủy phá, \q2 và thành Kia-mô-áp cũng bị hủy diệt. \q1 \v 2 Dân của ngươi sẽ xô nhau chạy lên đền tại Đi-bôn để than khóc. \q2 Chúng sẽ đến miếu tà thần mà kêu la. \q1 Chúng sẽ than van cho số phận của Nê-bô và Mê-đê-ba, \q2 tất cả đều cạo đầu và cắt râu. \q1 \v 3 Chúng mặc bao gai đi thất thểu giữa đường phố. \q2 Chúng khóc lóc, đổ nhiều nước mắt trên mỗi mái nhà và nơi phố chợ. \q1 \v 4 Dân thành Hết-bôn và Ê-lê-a-lê sẽ kêu la; \q2 tiếng của họ vang dội thấu Gia-hát! \q1 Lính chiến Mô-áp đều than khóc thảm thiết. \q2 Họ bất lực và run sợ. \q1 \v 5 Lòng Ta khóc thương Mô-áp. \q2 Người có thế lực trốn về Xoa và Ê-lát-sê-li-sia. \q2 Vừa khóc vừa lên Lu-hít. \q2 Tiếng thở than vang thấu Hô-rô-na-im. \q1 \v 6 Nước sông Nim-rim khô cạn! \q2 Đồng khô cỏ cháy. \q2 Vườn tược tiêu điều; \q2 không một cây xanh nào sống sót. \q1 \v 7 Người tị nạn vơ vét được chút gì có thể đem theo, \q2 rồi vượt qua khe Liễu chạy trốn. \q1 \v 8 Tiếng khóc đau buồn vang dội khắp đất Mô-áp, \q2 từ vùng biên giới đến tận Ê-la-im và Bê-ê-lim. \q1 \v 9 Nước sông Đi-môn nhuộm đỏ máu người, \q2 nhưng Ta vẫn còn thêm tai họa cho Đi-bôn! \q1 Đàn sư tử sẽ rượt theo cắn xé những người sống sót— \q2 là những người cố gắng trốn chạy \q2 lẫn những người còn sót lại phía sau. \c 16 \q1 \v 1 Hãy gửi những chiên con làm cống lễ \q2 cho người cầm quyền trên vùng từ Sê-la. \q1 Gửi chúng ngang qua hoang mạc \q2 đến ngọn núi của Si-ôn xinh đẹp. \q1 \v 2 Những người nữ Mô-áp như đàn chim bị quăng khỏi tổ \q2 quanh các bến cạn trên sông Ạt-nôn. \q1 \v 3 Họ kêu khóc: “Xin cứu chúng tôi, \q2 xin che chở chúng tôi khỏi kẻ thù của chúng tôi. \q1 Xin bảo vệ chúng tôi khỏi sự tấn công tàn nhẫn của họ. \q2 Xin đừng phản bội chúng tôi vì bây giờ chúng tôi đã trốn chạy. \q1 \v 4 Hãy cho dân tị nạn được cư ngụ giữa các người. \q2 Xin dấu họ khỏi kẻ thù cho đến khi sự khủng khiếp qua đi.” \b \q1 Khi sự áp bức và việc phá hoại kết thúc \q2 và kẻ xâm lấn sẽ biến mất khỏi mặt đất, \q1 \v 5 thì Đức Chúa Trời sẽ lập một hậu tự của Đa-vít làm vua. \q2 Người sẽ cai trị với lòng nhân từ và chân lý. \q1 Đấng ấy sẽ luôn luôn làm điều công chính, \q2 và bênh vực lẽ phải. \q1 \v 6 Chúng ta đã nghe sự kiêu ngạo của Mô-áp— \q2 về sự ngạo mạn, xấc láo và cuồng bạo của nó. \q1 Nhưng tất cả đã chìm trong tủi nhục. \q1 \v 7 Vì thế người Mô-áp than khóc. \q2 Phải, mỗi người trong Mô-áp đều than khóc \q2 vì thèm nhớ bánh trái nho ở Kiệt Ha-rê-sết. \q1 Nhưng bây giờ không còn nữa. \q1 \v 8 Những cánh đồng của Hết-bôn bị bỏ hoang; \q2 những vườn nho tại Síp-ma đã khô cháy. \q1 Những lãnh đạo các nước chà đạp Mô-áp— \q2 là những gốc nho quý nhất. \q1 Dây nho trải dài từ bắc lan đến tận Gia-ê-xe \q2 và trải rộng từ hướng đông vào tận hoang mạc. \q1 Chồi của nó đâm ra về hướng tây \q2 băng qua bên kia biển. \b \q1 \v 9 Vì thế, Ta khóc than cho Gia-ê-xe và vườn nho Síp-ma; \q2 nước mắt Ta rơi vì Hết-bôn và Ê-lê-a-lê. \q1 Tiếng hát reo vui của người hái trái mùa hạ không còn nữa. \q1 \v 10 Niềm hân hoan mất đi \q2 sự vui vẻ của mùa gặt không còn nữa. \q1 Không còn ai ca hát trong vườn nho, \q2 không còn những tiếng la vui nữa, \q2 không còn ai đạp nho trong thùng lấy rượu. \q1 Vì Ta đã làm dứt tiếng reo vui của người đạp nho. \q1 \v 11 Lòng Ta khóc thương Mô-áp như tiếng rên của đàn hạc. \q2 Ta sẽ đau thương, thảm sầu vì Kiệt Ha-rê-sết. \q1 \v 12 Dù người Mô-áp sẽ thờ phượng tại miếu tà thần của họ, \q2 cũng chỉ phí sức mà thôi. \q1 Họ sẽ kêu cầu các thần trong đền miếu của họ, \q2 nhưng không ai cứu được họ. \p \v 13 Những lời này Chúa Hằng Hữu đã phán dạy từ lâu. \v 14 Nhưng lần này, Chúa Hằng Hữu phán: “Trong vòng ba năm, vinh quang của Mô-áp sẽ tiêu tan. Từ một dân tộc hùng cường đông đảo ấy chỉ còn lại vài người sống sót.” \c 17 \s1 Tiên Tri về Đa-mách và Ít-ra-ên \p \v 1 Đây là lời tiên tri về Đa-mách: \q1 “Kìa, thành Đa-mách sẽ biến mất! \q2 Nó chỉ còn là một đống đổ nát. \q1 \v 2 Các thành xứ A-rô-e sẽ hoang vắng. \q2 Bầy vật nằm nghỉ, không bị ai khuấy rối. \q1 \v 3 Các đồn lũy của Ít-ra-ên cũng sẽ bị tàn phá, \q2 vương quyền của Đa-mách cũng không còn. \q1 Tất cả dân sót lại của Sy-ri \q2 sẽ không khác gì vinh quang tàn tạ của Ít-ra-ên.” \q1 Chúa Hằng Hữu Vạn Quân đã công bố. \b \q1 \v 4 “Trong ngày ấy, vinh quang nhà Gia-cốp sẽ lịm dần; \q2 thân xác béo mập của nó sẽ gầy ốm. \q1 \v 5 Cả vùng đất sẽ giống như một đồng lúa \q2 sau khi các thợ gặt ngắt hết lúa. \q1 Nó sẽ trở nên hoang tàn, \q2 như cánh đồng trong thung lũng Rê-pha-im sau mùa gặt. \q1 \v 6 Chỉ còn vài người sống sót, \q2 như vài trái ô-liu lác đác trên cây sau mùa hái trái. \q1 Chỉ còn hai hay ba trái sót lại trên các cành cao, \q2 bốn hay năm trái rải rác trên các cành to.” \q1 Chúa Hằng Hữu là Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên đã phán. \b \q1 \v 7 Cuối cùng, chúng sẽ hướng về Đấng Tạo Hóa mình \q2 và kính cẩn nhìn lên Đấng Thánh của Ít-ra-ên. \q1 \v 8 Chúng sẽ không còn cầu khẩn trước các tượng thần của chúng, \q2 cũng không thờ lạy các tạo vật do tay chúng làm ra. \q1 Chúng sẽ không còn cúi đầu trước tượng thần A-sê-ra nữa, \q2 hay thờ phượng các tà thần mà chúng đã dựng nên. \q1 \v 9 Những thành kiên cố của chúng sẽ như rừng hoang, \q2 như đất của người Hết và người A-mô-rít bị bỏ phế \q2 như khi xưa người Ít-ra-ên tiến vào vùng đất ấy. \q1 Đó thật là một cảnh hoang tàn. \q1 \v 10 Tại sao? Vì ngươi đã quay lưng với Đức Chúa Trời là Đấng đã cứu chuộc ngươi. \q2 Ngươi đã quên Tảng Đá muôn đời che chở ngươi. \q1 Vậy, dù ngươi trồng loại nho tốt nhất \q2 và ươm trồng những giống nho ngoại quốc. \q1 \v 11 Dù cây mọc lên trong ngày ngươi trồng nó; \q2 phải, nó nứt mộng thành cây ngay buổi sáng ngươi trồng, \q2 nhưng đến mùa sẽ chẳng hái được một quả nho. \q1 Ngươi chỉ gặt được những nỗi sầu muộn \q2 và đau thương vô phương cứu chữa. \b \q1 \v 12 Hãy nghe! Tiếng gầm thét của đạo quân các nước \q2 nghe như tiếng sóng dữ trên đại đương. \q1 Chúng hối hả tiến quân ầm ầm như nhiều dòng thác đổ. \q1 \v 13 Dù quân các nước tiến công như vũ bão, như sóng thần, \q2 Đức Chúa Trời sẽ khiến chúng lặng im và chúng sẽ bỏ chạy. \q1 Chúng sẽ trốn chạy như đống rơm bị gió đánh tan tác, \q2 như đám bụi bị bão cuốn đi. \q1 \v 14 Vào buổi tối Ít-ra-ên trông chờ trong khiếp sợ, \q2 nhưng vừa bình minh kẻ thù chẳng còn ai. \q1 Đó là phần cho quân cướp phá, \q2 là số phận cho những người đã hủy diệt chúng ta. \c 18 \s1 Lời Tiên Tri về Ê-thi-ô-pi \p \v 1 Hãy lắng nghe, Ê-thi-ô-pi, khốn cho dải đất đập cánh nằm tại đầu sông Nin, \v 2 là đất sai sứ giả vượt biển trên các chiếc thuyền nan. \q1 Đi đi, các sứ giả nhanh nhẹn! \q2 Hãy đến cùng giống dân cao ráo, da nhẵn, \q1 một dân khiến mọi nước xa gần đều sợ hãi \q2 sự xâm lăng và hủy diệt của họ, \q2 và là vùng đất đầy sông ngòi ngang dọc. \b \q1 \v 3 Hỡi các cư dân trên thế giới, \q2 mỗi cư dân sống trên đất— \q2 khi ngọn cờ phất phới trên đỉnh núi, hãy nhìn! \q1 Khi tiếng kèn trận thổi vang, hãy lắng nghe! \p \v 4 Vì Chúa Hằng Hữu đã phán với tôi điều này: \q1 “Ta sẽ lặng nhìn từ nơi Ta ngự— \q2 yên lặng như ánh nắng trong sức nóng ngày hè, \q2 hay như sương mai tan đi dưới ánh nắng mùa gặt.” \q1 \v 5 Dù trước kỳ ngươi thu hoạch, \q2 trong khi chồi đã lớn, hoa đã kết trái chín, \q1 Chúa Hằng Hữu sẽ cắt bỏ những cây mới lớn với lưỡi liềm. \q2 Chúa sẽ tỉa và loại bỏ những cành non. \q1 \v 6 Đội quân hùng mạnh của ngươi sẽ nằm chết ngoài đồng, \q2 làm mồi cho chim muông trên núi và thú hoang. \q1 Chim muông sẽ rỉa thịt suốt mùa hè. \q2 Thú hoang sẽ ăn mòn xương suốt mùa đông. \q1 \v 7 Lúc ấy, Chúa Hằng Hữu Vạn Quân sẽ nhận lễ vật \q2 từ vùng đất có nhiều sông ngòi ngang dọc, \q1 từ giống dân cao ráo, da nhẵn, \q1 là dân khiến mọi nước xa gần đều sợ hãi \q2 sự xâm lăng và hủy diệt của họ. \q1 Họ sẽ đem lễ vật đến Giê-ru-sa-lem, \q2 là nơi Chúa Hằng Hữu Vạn Quân ngự.\f + \fr 18:7 \fr*\ft Nt nơi đặt Danh Chúa Hằng Hữu Toàn Năng\ft*\f* \c 19 \s1 Lời Tiên Tri về Ai Cập \p \v 1 Đây là lời tiên tri về Ai Cập: \q1 Hãy xem! Chúa Hằng Hữu ngự trên đám mây, \q2 bay nhanh đến Ai Cập. \q1 Các thần tượng Ai Cập sẽ run rẩy. \q2 Lòng người Ai Cập tan ra như nước. \b \q1 \v 2 “Ta sẽ khiến người Ai Cập chống người Ai Cập— \q2 anh em đánh nhau, \q1 láng giềng nghịch thù nhau, \q2 thành này chống thành kia, \q2 làng này đánh làng khác. \q1 \v 3 Người Ai Cập sẽ mất hết tinh thần, \q2 Ta sẽ phá hỏng mưu lược của chúng. \q1 Chúng sẽ đi cầu các thần tượng, \q2 cầu hồn người chết, \q2 cầu đồng cốt và thầy pháp. \q1 \v 4 Ta sẽ nộp người Ai Cập vào tay các bạo chúa, \q2 và một vua hung ác sẽ cai trị chúng.” \q1 Chúa là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân đã phán vậy. \b \q1 \v 5 Nước sông Nin sẽ cạn. \q2 Các ruộng bờ sẽ cạn nứt và khô. \q1 \v 6 Các con kinh của sông Nin sẽ khô rặc, \q2 các suối của Ai Cập sẽ hôi thối \q2 và lau sậy héo hắt. \q1 \v 7 Cây cỏ dọc bờ sông \q2 và tất cả ruộng đồng dọc theo sông \q2 sẽ khô héo và thổi bay đi không còn gì. \q1 \v 8 Các ngư phủ sẽ than van vì không có việc làm. \q2 Những người bắt cá bằng cần câu tại sông Nin sẽ than khóc, \q2 và những người bắt cá bằng lưới sẽ nản lòng. \q1 \v 9 Không có gai cho người lấy sợi, \q2 và không có chỉ cho thợ dệt. \q1 \v 10 Họ sẽ sống trong tuyệt vọng, \q2 và tất cả nhân công sẽ đau buồn. \q1 \v 11 Các nhà lãnh đạo ở Xô-an thật dại dột! \q2 Các cố vấn khôn ngoan nhất của vua Ai Cập chỉ đưa lời ngu dại và sai trái. \q2 Sao họ vẫn khoác lác với Pha-ra-ôn về sự khôn ngoan mình? \q2 Sao họ còn khoe khoang rằng mình là con cháu của vua chúa thời xưa? \q1 \v 12 Các quân sư khôn ngoan của Ai Cập đâu rồi? \q2 Hãy để chúng nói về những chương trình của Đức Chúa Trời, \q2 và thử đoán xem Chúa Hằng Hữu Vạn Quân dự định làm gì tại Ai Cập. \q1 \v 13 Các quan chức của Xô-an đã trở nên ngu dại. \q2 Các quan chức của Nốp đã bị đánh lừa. \q2 Những lãnh đạo của dân chúng đã hướng dẫn Ai Cập vào con đường lầm lạc. \q1 \v 14 Chúa Hằng Hữu đổ lên họ tinh thần đảo điên, \q2 vì vậy mọi kiến nghị của họ đề sai trật. \q1 Chúng khiến Ai Cập chao đảo \q2 như người say vừa mửa vừa đi xiêu vẹo. \q1 \v 15 Ai Cập không còn làm được gì cả. \q2 Tất cả đều không giúp được— \q1 từ đầu đến đuôi, \q2 từ người cao quý đến người hèn mọn. \p \v 16 Trong ngày ấy người Ai Cập sẽ yếu ớt như phụ nữ. Họ run rẩy khiếp sợ trước bàn tay đoán phạt của Chúa Hằng Hữu Vạn Quân. \v 17 Chỉ vừa nói đến tên của Ít-ra-ên thì ai cũng sợ hãi, vì Chúa Hằng Hữu Vạn Quân đã dự định phạt họ như thế. \p \v 18 Trong ngày ấy, năm thành của Ai Cập sẽ theo Chúa Hằng Hữu Vạn Quân. Họ sẽ nói tiếng Hê-bơ-rơ, là ngôn ngữ của Ca-na-an. Một trong những thành này sẽ được gọi là Thành Mặt Trời. \p \v 19 Lúc ấy, người ta sẽ lập một bàn thờ cho Chúa Hằng Hữu giữa đất nước Ai Cập, và dựng một trụ tháp cho Ngài tại biên giới. \v 20 Đó là dấu hiệu chứng tỏ người Ai Cập đã thờ Chúa Hằng Hữu Vạn Quân giữa đất nước mình. Khi dân chúng kêu cầu Chúa Hằng Hữu giúp chống lại quân xâm lăng áp bức, Chúa sẽ sai một vị cứu tinh vĩ đại đến giải cứu họ. \v 21 Ngày ấy, Chúa Hằng Hữu sẽ cho Ai Cập biết Ngài. Phải, người Ai Cập sẽ nhìn biết Chúa Hằng Hữu, dâng sinh tế và lễ vật lên Ngài. Họ sẽ thề với Chúa Hằng Hữu và sẽ giữ đúng lời hứa nguyện. \v 22 Chúa Hằng Hữu sẽ đánh Ai Cập, nhưng sẽ chữa lành thương tích. Người Ai Cập sẽ quay về với Chúa. Chúa sẽ nghe lời họ khẩn cầu và chữa lành cho họ. \p \v 23 Trong ngày ấy, sẽ có một thông lộ nối liền Ai Cập với A-sy-ri.\f + \fr 19:23 \fr*\ft I-rắc\ft*\f* Người Ai Cập và A-sy-ri sẽ đi thăm nhau, và cả hai cùng thờ phượng Đức Chúa Trời. \v 24 Ngày ấy, Ít-ra-ên sẽ liên minh với họ. Cả ba nước hợp lại, và Ít-ra-ên sẽ đem phước lành cho họ. \v 25 Vì Chúa Hằng Hữu Vạn Quân sẽ phán: “Phước cho Ai Cập, dân Ta. Phước cho A-sy-ri, công trình của tay Ta. Phước cho Ít-ra-ên, cơ nghiệp Ta!” \c 20 \s1 Lời Tiên Tri về Ai Cập và Ê-thi-ô-pi \p \v 1 Vào năm khi Vua Xạc-gôn, nước A-sy-ri, sai thống tướng đánh chiếm Phi-li-tin, thành Ách-đốt, \v 2 Chúa Hằng Hữu phán với Y-sai, con A-mốt: “Hãy cởi bao gai và bỏ giày.” Y-sai vâng lời phán dạy rồi ở trần và đi chân không. \p \v 3 Chúa Hằng Hữu phán: “Y-sai, đầy tớ Ta, đã ở trần và đi chân không suốt ba năm. Đây là dấu hiệu—là điềm nghịch mà Ta sẽ giáng trên Ai Cập và Ê-thi-ô-pi. \v 4 Vua A-sy-ri sẽ bắt các tù binh Ai Cập và Ê-thi-ô-pi. Vua ấy sẽ bắt họ đều phải trần truồng\f + \fr 20:4 \fr*\ft Nt trần truồng lòi móng\ft*\f* và đi chân không, từ trẻ đến già, để hạ nhục Ai Cập. \v 5 Rồi người Phi-li-tin sẽ khiếp sợ và hổ thẹn, vì họ đã dựa vào quyền lực của Ê-thi-ô-pi và kiêu hãnh về liên minh của họ tại Ai Cập! \v 6 Họ sẽ nói: ‘Nếu điều này xảy ra cho Ai Cập, thì có cơ hội nào cho chúng ta? Chúng ta đã dựa vào Ai Cập để bảo vệ chúng ta khỏi tay vua A-sy-ri.’” \c 21 \s1 Lời Tiên Tri về Ba-by-lôn \p \v 1 Đây là lời tiên tri về Ba-by-lôn—hoang mạc bên cạnh biển: \q1 Một thảm họa ập đến ngươi từ hoang mạc, \q2 như gió lốc quét ngang đất phương nam. \q1 \v 2 Tôi thấy một khải tượng khủng khiếp: \q2 Tôi thấy bọn phản trắc bị phản bội, \q2 và bọn hủy diệt bị hủy diệt. \q1 Ê-lam, hãy tiến công! \q2 Mê-đi, hãy bao vây! \q2 Ta đã chấm dứt tiếng rên la do Ba-by-lôn gây ra. \q1 \v 3 Sự việc này làm tôi đau thắt như đàn bà sinh nở. \q2 Tôi ngã quỵ khi nghe chương trình của Đức Chúa Trời; \q2 tôi kinh hãi khi thấy cảnh ấy. \q1 \v 4 Tâm trí tôi hoang mang và lòng đầy kinh sợ. \q2 Tôi trông mong ánh hoàng hôn đến \q2 nhưng nay tôi lại sợ hãi bóng đêm. \b \q1 \v 5 Kìa! Chúng đang dọn tiệc lớn. \q2 Chúng đang trải thảm cho người ta ngồi lên đó. \q2 Mọi người đều ăn và uống. \q2 Nhanh lên! Mau lấy khiên chuẩn bị chiến đấu \q2 Hỡi chiến sĩ hãy chỗi dậy! \p \v 6 Trong khi ấy, Chúa phán bảo tôi: \q1 “Hãy đi đặt người canh gác trên tường thành. \q2 Để khi thấy gì, người ấy sẽ la to. \q1 \v 7 Nếu thấy các chiến xa \q2 được kéo bởi cặp kỵ binh, \q2 và những người cỡi lừa và lạc đà. \q1 Thì người canh gác phải báo động.” \p \v 8 Khi người canh la lên: \q1 “Ngày qua ngày tôi đứng trên tháp canh, chúa tôi ơi. \q2 Đêm qua đêm tôi liên tục trực gác. \q1 \v 9 Cuối cùng—nhìn kìa! \q2 Lính cưỡi chiến xa với cặp ngựa đã đến!” \p Người canh gác kêu lên: \q1 “Ba-by-lôn sụp đổ, sụp đổ rồi! \q2 Các thần tượng của Ba-by-lôn \q2 cũng đổ nằm la liệt dưới đất!” \q1 \v 10 Hỡi dân tôi ơi, là dân đã bị chà đạp và sàng lọc, \q2 tôi đã nói những gì tôi đã nghe từ Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán, \q2 mọi điều mà Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên đã phán bảo tôi. \s1 Lời Tiên Tri về Ê-đôm \p \v 11 Đây là lời tiên tri về Ê-đôm: \b \p Có người đến từ Ê-đôm cứ gọi tôi mà hỏi: \q1 “Người canh gác! Còn bao lâu nữa thì sáng? \q2 Khi nào đêm sẽ qua?” \p \v 12 Người canh gác đáp: \q1 “Sắp sáng rồi, nhưng đêm sẽ sớm trở lại. \q2 Nếu muốn hỏi nữa, hãy trở lại sau mà hỏi.” \s1 Lời Tiên Tri về A-rập \p \v 13 Đây là lời tiên tri về A-rập: \q1 Hỡi đoàn lữ hành Đê-đan, \q2 đã ẩn trốn tại hoang mạc A-rập. \q1 \v 14 Hỡi cư dân Thê-ma, \q2 hãy mang nước đến cho những người khát, \q2 thức ăn cho người tị nạn. \q1 \v 15 Vì họ chạy trốn khỏi gươm, \q2 khỏi gươm đã tuốt ra khỏi vỏ, \q2 khỏi cung tên, và khỏi chiến tranh rùng rợn. \p \v 16 Nhưng Chúa phán với tôi: “Trong vòng một năm,\f + \fr 21:16 \fr*\ft Nt tính theo năm người làm thuê\ft*\f* hãy đếm từng ngày, tất cả vinh quang của Kê-đa sẽ hết. \v 17 Chỉ còn vài lính thiện xạ sống sót. Ta, Chúa Hằng Hữu là Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên, đã phán vậy!” \c 22 \s1 Giê-ru-sa-lem \p \v 1 Đây là lời tiên tri về Giê-ru-sa-lem—Thung Lũng Khải Tượng: \q1 Việc gì xảy ra? \q2 Tại sao mọi người đều trèo lên mái nhà? \q1 \v 2 Cả thành chìm trong tiếng ồn ào kinh khủng. \q2 Tôi thấy gì trong thành náo loạn này? \q1 Xác người nằm la liệt khắp nơi, \q1 không bị giết trong chiến trận nhưng chết bởi \q2 đói kém và bệnh tật. \q1 \v 3 Tất cả lãnh đạo của ngươi đều kéo nhau chạy trốn. \q2 Chúng bị bắt mà không chống cự.\f + \fr 22:3 \fr*\ft Nt không có cung\ft*\f* \q2 Dân chúng tìm đường trốn chạy, \q2 nhưng dù chạy đã xa cũng bị bắt lại. \p \v 4 Vậy nên tôi nói: \q1 “Hãy để một mình tôi khóc lóc; \q2 đừng cố an ủi tôi. \q1 Hãy để tôi khóc về sự hủy diệt của dân tôi.” \b \q1 \v 5 Ôi, ngày của sự thất bại thảm hại! \q2 Chúa là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân \q2 đã đem một ngày hỗn loạn và kinh hoàng \q2 đến Thung Lũng Khải Tượng! \q1 Tường thành của Giê-ru-sa-lem đổ xuống, \q2 tiếng kêu khóc vang khắp núi đồi. \q1 \v 6 Quân Ê-lam là những xạ thủ \q2 cùng với chiến xa và ngựa. \q1 Quân Ki-rơ cầm thuẫn sẵn sàng. \q1 \v 7 Chiến xa tràn ngập các thung lũng đẹp của ngươi, \q2 và kỵ binh dàn trận ngay trước cổng thành. \q1 \v 8 Sự phòng thủ Giu-đa vô hiệu. \q2 Các ngươi chỉ còn trông nhờ vũ khí trong rừng. \q1 \v 9 Các ngươi thấy nhiều kẽ nứt trên tường thành Giê-ru-sa-lem. \q2 Các ngươi chứa nước trong ao hạ. \q1 \v 10 Các ngươi đếm nhà cửa \q2 và phá bớt một số để lấy đá sửa tường lũy. \q1 \v 11 Giữa các tường thành, các ngươi đào hồ chứa nước \q2 để chứa nước từ ao cũ. \q1 Nhưng các ngươi không cầu hỏi Đấng đã làm việc này. \q2 Các ngươi không nhờ cậy Đấng đã dự định việc này từ lâu. \b \q1 \v 12 Khi ấy, Chúa là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân \q2 bảo các ngươi than van và khóc lóc. \q1 Ngài bảo các ngươi cạo đầu trong buồn rầu vì tội lỗi mình, \q2 và mặc bao gai để tỏ sự ăn năn của mình. \q1 \v 13 Thế mà các ngươi vẫn nhảy múa và vui đùa; \q2 các ngươi mổ bò và giết chiên. \q1 Các ngươi ăn thịt và uống rượu thỏa thích. \q2 Các ngươi bảo nhau: “Hãy cứ ăn uống \q2 vì ngày mai chúng ta sẽ chết!” \p \v 14 Chúa Hằng Hữu Vạn Quân tỏ bày điều này cho tôi:\f + \fr 22:14 \fr*\ft Nt nói vào tai tôi\ft*\f* “Tội lỗi các ngươi sẽ không bao giờ được tha cho đến ngày các ngươi qua đời.” Đó là sự phán xét của Chúa là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân. \s1 Lời Tiên Tri về Sép-na \p \v 15 Đây là những gì Chúa là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán với tôi: “Hãy đến nhà Sép-na, là người cai quản hoàng cung, và nói với người ấy những lời này: \q1 \v 16 ‘Ngươi nghĩ ngươi là ai, \q2 và ngươi làm gì ở đây, \q2 mà xây một ngôi mộ xinh đẹp cho mình— \q2 đục một huyệt mộ nơi cao trong vầng đá? \q1 \v 17 Vì Chúa Hằng Hữu sẽ ném ngươi ra xa, hỡi người mạnh kia. \q2 Ngài sẽ tóm lấy ngươi, \q1 \v 18 cuộn ngươi như quả bóng, \q2 và ném ngươi vào vùng đất rộng lớn. \q1 Ngươi sẽ chết tại đó, \q2 và các chiến mã vinh quang sẽ gãy nát và vô dụng. \q1 Ngươi là sự sỉ nhục cho chủ ngươi!’” \p \v 19 Chúa Hằng Hữu phán: “Phải, Ta sẽ truất ngươi khỏi địa vị cao trọng. \v 20 Lúc ấy, Ta sẽ gọi đầy tớ Ta là Ê-li-a-kim, con Hinh-kia, để thế chỗ của ngươi. \v 21 Ta sẽ mặc cho người áo dài hoàng tộc của ngươi và cho người danh hiệu và quyền lực của ngươi. Người sẽ làm cha cho dân cư Giê-ru-sa-lem và cho nhà Giu-đa.\f + \fr 22:21 \fr*\ft Nắm quyền thay ngươi để bảo vệ dân chúng\ft*\f* \v 22 Ta sẽ giao cho người chìa khóa nhà Đa-vít—chức vụ cao nhất trong tòa án hoàng gia. Khi người mở cửa thì không ai có thể đóng lại; khi người đóng cửa thì không ai có thể mở chúng. \v 23 Ta sẽ củng cố người như đinh đóng vào chỗ chắc chắn;\f + \fr 22:23 \fr*\ft Vững như bàn thạch\ft*\f* người sẽ là ngôi vinh quang\f + \fr 22:23 \fr*\ft Vinh quang tuyệt vời\ft*\f* cho nhà cha mình. \v 24 Người ta sẽ treo trên đinh ấy tất cả vinh quang của gia đình người, con cháu dòng dõi, và tất cả những đồ đựng bé nhỏ từ chén đến bình.” \p \v 25 Chúa Hằng Hữu Vạn Quân cũng phán: “Trong ngày ấy, cái đinh treo áo đóng nơi vững chắc sẽ bị xô lệch. Nó sẽ bị nhổ bật ra và sẽ rơi xuống đất. Những gì treo nặng trên nó sẽ bị rớt xuống. Ta, Chúa Hằng Hữu đã phán vậy!” \c 23 \s1 Lời Tiên Tri về Ty-rơ \p \v 1 Đây là lời tiên tri về Ty-rơ: \q1 Hãy khóc than, hỡi các tàu buôn Ta-rê-si, \q2 vì hải cảng và nhà cửa của ngươi đã bị tàn phá! \q1 Những tin đồn ngươi nghe từ đảo Kít-tim \q2 tất cả đều là sự thật. \q1 \v 2 Hãy âm thầm khóc than hỡi cư dân miền biển \q2 và các nhà buôn Si-đôn. \q1 Đội thương thuyền ngươi đã từng băng qua biển, \q1 \v 3 vượt trên những vùng nước sâu. \q2 Họ mang về cho ngươi hạt giống từ Si-ho \q2 và mùa màng từ dọc bờ sông Nin. \q1 Ngươi là trung tâm thương mại của các nước. \b \q1 \v 4 Nhưng bây giờ ngươi đã khiến mình hổ thẹn, hỡi thành Si-đôn, \q2 vì Ty-rơ, thành lũy của biển, nói: \q1 “Tôi không có con; \q2 tôi không có con trai hay con gái.” \q1 \v 5 Khi Ai Cập nghe tin từ Ty-rơ, \q2 người ta đau xót về số phận của Ty-rơ. \q1 \v 6 Hãy gửi lời đến Ta-rê-si! \q2 Hãy than khóc, hỡi cư dân của các hải đảo! \q1 \v 7 Đây có phải từng là thành nhộn nhịp của ngươi không? \q2 Là thành ngươi có từ xa xưa! \q2 Hãy nghĩ về những người khai hoang ngươi đã gửi đi xa. \b \q1 \v 8 Ai mang thảm họa này cho Ty-rơ, \q2 là nơi từng tạo nên sự cao quý cho các vương quốc. \q1 Các thương gia của thành là các hoàng tử, \q2 và những con buôn của thành là quý tộc. \q1 \v 9 Chúa Hằng Hữu Vạn Quân đã dự định \q2 hủy diệt tất cả sự ngạo mạn \q2 và hạ mọi tước vị cao quý trên đất xuống. \q1 \v 10 Hãy đến, hỡi người Ta-rê-si, \q2 hãy tràn qua đất như nước triều sông Nin \q2 vì Ty-rơ đâu còn nữa. \q1 \v 11 Chúa Hằng Hữu đưa tay trên biển, \q2 làm rúng động các vương quốc trên đất. \q1 Ngài đã ra lệnh chống nghịch Ca-na-an rằng \q2 hãy tiêu diệt đồn lũy nó. \q1 \v 12 Chúa phán: “Các ngươi chẳng bao giờ vui sướng nữa, \q2 hỡi con gái Si-đôn, vì các ngươi đã bị chà đạp. \q1 Dù ngươi có trốn qua Kít-tim, \q2 các ngươi cũng chẳng được nghỉ ngơi.” \b \q1 \v 13 Hãy nhìn vào đất Ba-by-lôn,\f + \fr 23:13 \fr*\ft Nt người Canh-đê\ft*\f* \q2 dân xứ này không còn nữa! \q1 Người A-sy-ri đã nộp Ba-by-lôn \q2 cho thú dữ của hoang mạc. \q1 Chúng dựng tháp canh vây thành, \q2 san bằng các thành lũy thành một nơi đổ nát. \b \q1 \v 14 Khóc lên đi, các thủy thủ trên tàu bè Ta-rê-si, \q2 vì đồn lũy các ngươi đã bị tiêu diệt! \p \v 15 Vì suốt bảy mươi năm, thời gian của một đời vua, Ty-rơ sẽ bị quên lãng. Nhưng sau đó, thành sẽ trở lại như bài ca của kỹ nữ: \q1 \v 16 Hãy lấy đàn hạc và đi khắp thành \q2 hỡi kỹ nữ bị lãng quên kia. \q1 Hãy đàn thật hay và hát cho nhiều bài ca \q2 để một lần nữa, ngươi được nhớ đến! \p \v 17 Phải, sau bảy mươi năm đó, Chúa Hằng Hữu sẽ phục hồi Ty-rơ. Nhưng nó cũng không khác gì ngày trước. Nó sẽ trở lại thông dâm với tất cả vương quốc trên thế giới. \v 18 Tuy nhiên, lợi tức của nó sẽ biệt riêng cho Chúa Hằng Hữu. Của cải của nó sẽ không dành dụm được nhưng để cung cấp thực phẩm dồi dào và trang phục đẹp cho các thầy tế lễ của Chúa Hằng Hữu. \c 24 \s1 Hình Phạt Thế Giới \q1 \v 1 Kìa! Chúa Hằng Hữu sẽ đảo lộn thế giới, \q2 và tàn phá mặt đất. \q1 Ngài sẽ làm đất hoang vu \q2 và phân tán dân cư khắp nơi. \q1 \v 2 Thầy tế lễ và dân chúng, \q2 đầy tớ trai và ông chủ, \q1 người hầu gái và bà chủ, \q2 người mua và người bán, \q2 người cho vay và người đi vay, \q2 chủ nợ và con nợ—không ai được miễn. \q1 \v 3 Khắp đất sẽ hoàn toàn trống không và bị tước đoạt. \q2 Chúa Hằng Hữu đã phán vậy! \b \q1 \v 4 Đất phải than van và khô hạn, \q2 mùa màng hoang vu và héo tàn. \q2 Dù người được trọng nhất trên đất cũng bị hao mòn. \q1 \v 5 Đất chịu khổ bởi tội lỗi của loài người, \q2 vì họ đã uốn cong điều luật Đức Chúa Trời, \q1 vi phạm luật pháp Ngài, \q2 và hủy bỏ giao ước đời đời của Ngài. \q1 \v 6 Do đó, đất bị nguyền rủa. \q2 Loài người phải trả giá cho tội ác mình. \q1 Họ sẽ bị tiêu diệt bởi lửa, \q2 chỉ còn lại vài người sống sót. \q1 \v 7 Các cây nho bị mất mùa, \q2 và không còn rượu mới. \q1 Mọi người tạo nên sự vui vẻ phải sầu thảm và khóc than. \q1 \v 8 Tiếng trống tưng bừng đã im bặt; \q2 tiếng reo hò vui tươi tán dương không còn nữa. \q1 Những âm điệu du dương của đàn hạc cũng nín lặng. \q1 \v 9 Không còn vui hát và rượu chè; \q2 rượu nồng trở nên đắng trong miệng. \q1 \v 10 Thành đổ nát hoang vắng; \q2 mỗi nhà đều cài then không cho ai vào. \q1 \v 11 Trong phố người kêu đòi rượu. \q2 Niềm vui thú biến ra sầu thảm. \q2 Sự hân hoan trên đất bị tước đi. \q1 \v 12 Thành chỉ còn lại cảnh điêu tàn; \q2 các cổng thành bị đập vỡ tan. \q1 \v 13 Cư dân trên đất sẽ cùng số phận— \q2 chỉ vài người sót lại như trái ô-liu lác đác trên cây \q2 như trái nho còn sót lại sau mùa hái. \q1 \v 14 Nhưng những ai sống sót sẽ reo mừng hát ca. \q2 Dân phương tây ngợi tôn uy nghiêm của Chúa Hằng Hữu. \q1 \v 15 Từ phương đông, họ dâng vinh quang lên Chúa Hằng Hữu. \q2 Dân hải đảo tôn vinh Danh Chúa Hằng Hữu, là Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên. \q1 \v 16 Chúng tôi nghe bài hát ngợi tôn từ tận cùng mặt đất, \q2 bài hát dâng vinh quang lên Đấng Công Chính! \b \q1 Nhưng lòng tôi nặng trĩu vì sầu khổ. \q2 Khốn nạn cho tôi, vì tôi đuối sức. \q1 Bọn lừa dối vẫn thắng thế, \q2 bọn phản trắc vẫn ở khắp nơi. \q1 \v 17 Các dân tộc trên đất. \q2 Các ngươi vẫn còn bị khủng bố, \q2 gài bẫy, và sập vào hố thẳm. \q1 \v 18 Ai trốn cảnh khủng khiếp sẽ bị rơi vào hố thẳm, \q2 ai thoát hố thẳm sẽ bị mắc bẫy chông. \b \q1 Sự hủy diệt rơi xuống như mưa từ những tầng mây; \q2 các nền móng trên đất đều rúng động. \q1 \v 19 Trái đất bị vỡ nát. \q2 Nó sụp đổ hoàn toàn; \q2 bị rúng động dữ dội. \q1 \v 20 Đất lảo đảo như người say. \q2 Tan tác như túp lều trước cơn bão. \q1 Nó ngã quỵ và sẽ không chỗi dậy nữa, \q2 vì tội lỗi nó quá nặng nề. \b \q1 \v 21 Trong ngày ấy, Chúa sẽ trừng phạt các thần trên trời cao \q2 và những người cai trị kiêu ngạo của mọi nước trên đất. \q1 \v 22 Chúng sẽ bị vây bắt và bị xiềng như tù nhân. \q2 Chúng sẽ bị giam trong ngục \q2 và cuối cùng sẽ bị trừng phạt. \q1 \v 23 Lúc ấy, mặt trăng sẽ khuyết, \q2 và ánh sáng mặt trời sẽ mất dần, \q2 vì Chúa Hằng Hữu Vạn Quân sẽ cai trị trên Núi Si-ôn. \q1 Ngài cai trị trong vinh quang vĩ đại tại Giê-ru-sa-lem, \q2 trước mặt các lãnh đạo của dân Ngài. \c 25 \s1 Ngợi Tôn Sự Phán Xét và Sự Cứu Rỗi \q1 \v 1 Lạy Chúa Hằng Hữu, con sẽ tôn vinh Chúa và ca ngợi Danh Ngài, \q2 vì Ngài là Đức Chúa Trời của con. \q1 Ngài đã làm những việc diệu kỳ! \q2 Ngài đã hoạch định chương trình ấy từ xưa, \q2 và nay Ngài thực hiện đúng như đã hứa. \q1 \v 2 Ngài đã biến các thành phố thành những đống phế thải. \q2 Tường thành kiên cố ra cảnh điêu tàn. \q1 Dinh thự xinh đẹp của các nước sụp đổ \q2 và sẽ chẳng bao giờ được tái thiết. \q1 \v 3 Vì thế các cường quốc sẽ công bố vinh quang Chúa, \q2 các thành của các dân tộc bạo ngược sẽ khiếp sợ Chúa. \b \q1 \v 4 Lạy Chúa, Chúa là nơi ẩn náu cho người nghèo, \q2 là nơi che chở cho người thiếu thốn trong lúc gian nguy, \q1 nơi cư trú trong cơn bão tố, \q2 và là bóng mát giữa cơn nóng thiêu. \q1 Vì kẻ tàn bạo thổi hơi ra như bão đập vào bức tường, \q1 \v 5 như hơi nóng trong hoang mạc. \q2 Nhưng Chúa sẽ làm im tiếng gào thét của dân ngoại quốc. \q1 Như giải trừ hơi nóng hoang mạc bằng bóng mây, \q2 để cho bài hát của kẻ bạo tàn phải nín lặng. \s1 Trên Núi của Chúa \q1 \v 6 Trong Giê-ru-sa-lem, Chúa Hằng Hữu Vạn Quân \q2 sẽ ban một đại tiệc đầy đủ mỹ vị \q2 cho tất cả dân tộc trên thế giới. \q1 Một yến tiệc với thịt béo và rượu thượng hạng. \q1 \v 7 Tại đó Chúa sẽ dẹp bỏ đám mây của bóng tối, \q2 là bóng của sự chết che khắp mặt đất. \q1 \v 8 Chúa sẽ nuốt sự chết mãi mãi! \q2 Chúa Hằng Hữu Chí Cao sẽ lau nước mắt khỏi mọi mặt. \q2 Ngài sẽ trừ bỏ mọi sỉ nhục và nhạo báng của dân Ngài trên khắp đất. \q2 Chúa Hằng Hữu đã phán vậy! \p \v 9 Ngày ấy, người ta sẽ nói: \q1 “Đây là Đức Chúa Trời chúng tôi! \q2 Chúng tôi đã tin cậy Ngài, và Ngài đã cứu chúng tôi! \q2 Đây là Chúa Hằng Hữu, Đấng chúng tôi tin cậy. \q2 Chúng tôi hân hoan vui mừng trong sự cứu rỗi của Ngài!” \q1 \v 10 Vì tay phước lành của Chúa Hằng Hữu sẽ đặt trên Giê-ru-sa-lem. \q2 Nhưng Mô-áp sẽ bị chà đạp. \q2 Nó sẽ như rơm rác trộn trong hố phân. \q1 \v 11 Đức Chúa Trời sẽ hạ người Mô-áp \q2 như người bơi lội bị tay Ngài dìm xuống nước. \q1 Chúa sẽ chấm dứt sự kiêu ngạo \q2 và mọi việc gian ác của chúng nó. \q1 \v 12 Chúa sẽ lật đổ các pháo đài kiên cố \q2 xây trên các tường lũy cao ngất, \q2 và ném tất cả xuống đất, xuống cát bụi. \c 26 \s1 Bài Hát Ngợi Tôn Chúa Hằng Hữu \p \v 1 Trong ngày ấy, mọi người trong đất Giu-đa sẽ hát bài ca này: \q1 Chúng ta có một thành mạnh mẽ! \q2 Sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời là tường lũy của chúng ta. \q1 \v 2 Hãy mở các cổng thành cho những ai công chính \q2 và những người giữ vững đức tin vào thành. \q1 \v 3 Chúa sẽ bảo vệ an bình toàn vẹn \q2 cho mọi người tin cậy Ngài, \q2 cho những ai giữ tâm trí kiên định nơi Ngài! \q1 \v 4 Hãy tin cậy Chúa Hằng Hữu mãi mãi \q2 vì Đức Chúa Trời Hằng Hữu là Vầng Đá vĩnh hằng. \q1 \v 5 Chúa hạ thấp những kẻ cao ngạo \q2 và triệt hạ thành nguy nga. \q2 Ngài sẽ sang bằng và ném xuống cát bụi. \q1 \v 6 Người nghèo và người bị áp bức sẽ chà đạp nó dưới chân, \q2 và người thiếu thốn sẽ bước đi trên nó. \q1 \v 7 Đường của người công chính \q2 thì không đồi dốc và gập ghềnh. \q1 Chúa là Đức Chúa Trời ngay thẳng, \q2 xin san bằng đường cho người công chính. \q1 \v 8 Vâng, thưa Chúa Hằng Hữu, \q2 chúng con sẽ trông đợi Chúa \q2 trên con đường xử đoán công bằng của Ngài. \q1 Danh Chúa và kỷ niệm Chúa \q2 là điều tâm hồn chúng con ao ước. \q1 \v 9 Ban đêm tâm hồn con khao khát Ngài; \q2 buổi sáng tâm linh con trông mong Đức Chúa Trời. \q1 Vì khi Chúa xét xử công minh trên mặt đất, \q2 người đời mới học biết điều công chính. \q1 \v 10 Sự nhân từ Ngài cho người ác, \q2 vậy mà chúng vẫn không biết điều công chính. \q1 Sống giữa đất người ngay,\f + \fr 26:10 \fr*\ft Nt sự thành thật \ft*\f* \q2 chúng vẫn làm điều gian trá, \q2 không ý thức về quyền uy của Chúa Hằng Hữu. \q1 \v 11 Lạy Chúa Hằng Hữu, tay Ngài đã đưa cao mà chúng vẫn không thấy. \q2 Xin cho chúng thấy nhiệt tâm của Ngài đối với dân Ngài. \q2 Rồi chúng sẽ hổ thẹn. \q2 Xin hãy để ngọn lửa dành cho kẻ thù của Ngài thiêu hóa chúng. \b \q1 \v 12 Lạy Chúa Hằng Hữu, Chúa sẽ cho chúng con hưởng thái bình; \q2 vì tất cả điều chúng con đạt được là đến từ Chúa cả. \q1 \v 13 Chúa Hằng Hữu, là Đức Chúa Trời chúng con, \q2 ngoài Chúa còn nhiều chủ khác đã chế ngự chúng con, \q2 nhưng chỉ có Chúa là Đấng chúng con thờ phượng. \q1 \v 14 Những người mà chúng con phục vụ trước đây đã chết và không còn nữa. \q2 Hồn linh chúng cũng sẽ không bao giờ trở lại! \q1 Vì Chúa đã đoán phạt và tiêu diệt chúng, \q2 cũng bôi xóa tất cả kỷ niệm về chúng. \q1 \v 15 Lạy Chúa Hằng Hữu, Ngài đã khiến vương quốc chúng con vĩ đại; \q2 phải, Ngài đã cho chúng con gia tăng dân số. \q1 Ngài mở rộng bờ cõi chúng con, \q2 và chúng con xin dâng vinh quang lên Chúa! \b \q1 \v 16 Lạy Chúa Hằng Hữu, trong cảnh hoạn nạn chúng con đã tìm kiếm Chúa. \q2 Khi bị sửa phạt, chúng hết lòng cầu khẩn Ngài. \q1 \v 17 Như đàn bà thai nghén quằn quại \q2 kêu la trong giờ chuyển bụng, \q2 chúng con cũng vậy trong sự hiện diện Ngài, lạy Chúa Hằng Hữu. \q1 \v 18 Chúng con cũng thai nghén, \q2 quằn quại nhưng chỉ sinh ra gió. \q1 Chúng con chẳng giải cứu được trái đất, \q2 cũng chẳng sinh được người nào trong thế gian. \q1 \v 19 Nhưng những người chết trong Chúa Hằng Hữu sẽ sống; \q2 thân xác họ sẽ chỗi dậy! \q1 Những người ngủ trong bụi đất \q2 sẽ thức dậy và hát mừng reo vui! \q1 Vì ánh sáng của Chúa đem lại sự sống sẽ rơi như sương móc \q2 trên dân Ngài trong cõi chết! \s1 Phục Hồi Ít-ra-ên \q1 \v 20 Hỡi dân Ta, hãy về nhà và đóng cửa lại! \q2 Hãy ẩn mình trong chốc lát \q2 cho đến khi cơn thịnh nộ của Chúa Hằng Hữu qua đi. \q1 \v 21 Kìa! Chúa Hằng Hữu đang từ trời ngự xuống \q2 để trừng phạt cư dân trên đất về tội ác của họ. \q1 Lúc ấy, đất sẽ không còn giấu những người bị giết nữa. \q2 Họ sẽ được mang ra cho mọi người nhìn thấy. \c 27 \p \v 1 Trong ngày ấy, Chúa Hằng Hữu sẽ dùng gươm nhọn, lớn, và mạnh để trừng phạt Lê-vi-a-than, là con rắn luồn lách, con rắn uốn lượn. Ngài sẽ giết con rồng ở biển. \q1 \v 2 “Trong ngày ấy, \q2 hãy hát về vườn nho sai trái. \q1 \v 3 Ta, Chúa Hằng Hữu sẽ coi sóc nó, \q2 tưới nước thường xuyên. \q1 Ngày và đêm, Ta sẽ canh giữ để không ai làm hại nó. \q1 \v 4 Cơn giận Ta sẽ không còn. \q2 Nếu Ta tìm thấy cỏ hoang và gai góc, \q2 Ta sẽ tiến đánh chúng; \q2 Ta sẽ thiêu chúng trong lửa— \q1 \v 5 ngoại trừ chúng trở lại xin Ta giúp đỡ. \q2 Hãy để chúng làm hòa với Ta; \q2 phải, hãy làm hòa với Ta.” \q1 \v 6 Sẽ đến ngày con cháu Gia-cốp đâm rễ. \q2 Ít-ra-ên sẽ nứt lộc, trổ hoa, \q2 và kết quả khắp đất! \b \q1 \v 7 Có phải Chúa Hằng Hữu đánh Ít-ra-ên \q2 như Ngài đánh kẻ thù nó? \q1 Có phải Chúa trừng phạt nó \q2 như Ngài đã trừng phạt kẻ thù nó chăng? \q1 \v 8 Không, nhưng Chúa đã dùng cách lưu đày đối với Ít-ra-ên. \q2 Nó bị lưu đày ra khỏi xứ của mình \q2 như cơn gió đông thổi bay đi. \q1 \v 9 Chúa Hằng Hữu đã làm điều này để thanh lọc tội của Ít-ra-ên, \q2 và cất đi tất cả tội lỗi nó. \q1 Đây là kết quả việc trừ bỏ tội của nó: \q2 Khi nó nghiền đá bàn thờ như đá vôi vỡ nát. \q1 Các trụ A-sê-ra hay bàn thờ dâng hương \q2 không còn đứng vững nữa. \q1 \v 10 Các thành lũy kiên cố sẽ yên lặng và trống vắng, \q2 nhà cửa bị bỏ hoang, \q2 trên đường phố mọc đầy cỏ dại. \q1 Bò sẽ nằm tại đó, \q2 nhai cỏ non và nhơi những cành cây. \q1 \v 11 Dân chúng sẽ như những cành chết, \q2 khô gãy và dùng để nhóm lửa. \q1 Ít-ra-ên là quốc gia ngu xuẩn và dại dột, \q2 vì dân nó đã từ bỏ Đức Chúa Trời. \q1 Vậy nên, Đấng tạo ra chúng \q2 không ban ơn, chẳng còn thương xót nữa. \p \v 12 Nhưng sẽ đến ngày Chúa Hằng Hữu sẽ tập hợp chúng lại như thu nhặt từng hạt thóc. Từng người một, Ngài sẽ tập hợp lại—từ phía đông Sông Ơ-phơ-rát cho đến phía tây Suối Ai Cập. \v 13 Trong ngày ấy, có tiếng kèn thổi vang. Những người bị chết trong cuộc lưu đày tại A-sy-ri và Ai Cập sẽ về Giê-ru-sa-lem để thờ phượng Chúa Hằng Hữu trên núi thánh của Ngài. \c 28 \s1 Lời Tiên Tri về Sa-ma-ri \q1 \v 1 Khốn cho thành kiêu ngạo Sa-ma-ri— \q2 là mão triều lộng lẫy của bọn say sưa của Ép-ra-im. \q1 Nó ngồi trên đầu thung lũng phì nhiêu, \q2 nhưng sắc đẹp vinh quang của nó sẽ như bông hoa tàn tạ. \q1 Nó là sự kiêu ngạo của một dân ngã xuống vì rượu. \q1 \v 2 Vì Chúa Hằng Hữu sẽ sai một người hùng mạnh chống lại nó. \q2 Như bão mưa đá và gió tàn hại, \q1 chúng sẽ xuất hiện trên nó như nước lớn dâng tràn \q2 và sẽ ném mạnh nó xuống đất. \q1 \v 3 Thành kiêu ngạo Sa-ma-ri— \q2 là mão triều lộng lẫy của bọn say sưa của Ép-ra-im— \q2 sẽ bị giẫm nát dưới chân kẻ thù nó. \q1 \v 4 Nó ngồi trên đầu thung lũng phì nhiêu, \q2 nhưng sắc đẹp vinh quang của nó như bông hoa tàn tạ. \q1 Bất cứ ai thấy nó cũng sẽ vồ lấy nó, \q2 như trái vả chín trước mùa bị hái và ăn nuốt ngay. \q1 \v 5 Vào ngày ấy, chính Chúa Hằng Hữu Vạn Quân \q2 sẽ là mão triều vinh quang của Ít-ra-ên. \q1 Chúa sẽ là niềm kiêu hãnh và vui mừng cho dân sót lại của Ngài. \q1 \v 6 Chúa sẽ là thần công chính \q2 cho người ngồi tòa xét xử. \q1 Ngài sẽ ban nguồn năng lực \q2 cho những ai đuổi giặc nơi cổng thành. \b \q1 \v 7 Bấy giờ, Ít-ra-ên bị dẫn dắt bởi bọn say sưa \q2 là những người choáng váng vì rượu, \q2 và loạng choạng vì rượu mạnh. \q1 Các thầy tế lễ và tiên tri chao đảo vì rượu mạnh, \q2 đi dầm mình trong men rượu. \q1 Họ bị quay cuồng khi thấy khải tượng, \q2 và họ đưa ra những phán đoán lầm lẫn. \q1 \v 8 Trên bàn tiệc của họ phủ đầy thứ ói mửa; \q2 không còn nơi nào tinh khiết. \q1 \v 9 Chúng hỏi: “Chúa Hằng Hữu nghĩ chúng ta là ai? \q2 Tại sao Ngài phán với chúng ta như vậy? \q2 Chúng ta có phải là những đứa trẻ mới dứt sữa đâu? \q1 \v 10 Ngài bảo chúng ta mọi thứ, cứ lặp đi lặp lại— \q2 mỗi lần một lệnh, \q1 mỗi lệnh một lần, \q2 một ít chỗ này, \q2 một ít chỗ nọ!” \b \q1 \v 11 Vì vậy, Đức Chúa Trời sẽ nói với dân Ngài \q2 bằng giọng xa lạ và môi khác thường! \p \v 12 Đức Chúa Trời đã phán với dân Ngài: \q1 “Đây là nơi an nghỉ; \q2 hãy để người mệt nhọc nghỉ tại đây. \q1 Đây là nơi nghỉ yên tĩnh.” \q2 Nhưng chúng chẳng lắng nghe. \q1 \v 13 Vì vậy, Chúa Hằng Hữu sẽ giải thích rõ ràng sứ điệp của Ngài cho họ lần nữa, \q2 mỗi lần một lệnh, \q1 mỗi lệnh một lần, \q2 một ít chỗ này, \q2 một ít chỗ kia, \q2 cứ để chúng sẽ trượt chân và té ngã. \q1 Chúng sẽ bị thương, bị sập bẫy, và bị bắt làm tù. \q1 \v 14 Vì thế, hãy lắng nghe sứ điệp này từ Chúa Hằng Hữu, \q2 hỡi những người cai trị hay phỉ báng trong Giê-ru-sa-lem. \q1 \v 15 Các ngươi khoác lác: “Chúng tôi đã kết ước với sự chết \q2 và thỏa hiệp với mồ mả. \q1 Để khi sự hủy diệt đến sẽ không đụng đến chúng tôi, \q2 vì chúng tôi dựng nơi ẩn trốn vững vàng bằng sự dối trá và lừa gạt.” \p \v 16 Vì thế, đây là điều Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: \q1 “Này! Ta đặt một nền đá tại Si-ôn, \q2 đá góc vững chắc và được thử luyện. \q1 Là đá quý giá, an toàn để xây cất. \q2 Ai tin cậy sẽ không bao giờ bị rúng động. \q1 \v 17 Ta sẽ thử ngươi bằng thước đo công bình, \q2 và dây chuẩn công chính. \q1 Từ khi nơi trú ẩn ngươi làm bằng sự dối trá, \q2 mưa đá sẽ đổ sụp lên ngươi. \q1 Từ khi nó được làm bằng sự lừa gạt, \q2 nước lũ sẽ quét sạch ngươi. \q1 \v 18 Ta sẽ hủy bỏ kết ước của ngươi với sự chết, \q2 và lật đổ thỏa hiệp của ngươi với mồ mả. \q1 Khi đại nạn quét qua, \q2 các ngươi sẽ bị giẫm sâu trong đất. \q1 \v 19 Một lần rồi một lần nữa lũ lụt sẽ đến, \q2 hết buổi sáng này đến buổi sáng khác, \q1 cả ngày lẫn đêm, \q2 cho đến khi các ngươi bị đùa đi.” \b \q1 Sứ điệp này sẽ mang kinh hoàng đến cho dân ngươi. \q1 \v 20 Giường ngươi làm ra quá ngắn không đủ nằm. \q2 Chăn cũng quá nhỏ không đủ đắp kín ngươi. \q1 \v 21 Chúa Hằng Hữu sẽ đến như khi Ngài nghịch cùng người Phi-li-tin tại Núi Ga-ri-xim \q2 và nghịch cùng người A-mô-rít tại Ga-ba-ôn. \q1 Chúa sẽ đến để làm điều lạ kỳ; \q2 Ngài sẽ đến để thực hiện công việc khác thường. \q1 \v 22 Vì Chúa là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân \q2 đã cho tôi hay về lệnh tiêu diệt cả đất này. \q1 Vì thế, đừng phỉ báng, \q2 e rằng xiềng xích các ngươi sẽ nặng thêm. \q1 \v 23 Hãy nghe tôi; \q2 hãy lắng tai và chú ý. \q1 \v 24 Có phải một nhà nông luôn cày đất \q2 và không bao giờ gieo giống? \q1 Có phải anh ấy cứ mãi vỡ đất \q2 và không bao giờ trồng? \q1 \v 25 Khi làm mặt đất bằng phẳng, \q2 chẳng lẽ anh ấy không gieo giống— \q2 hạt thìa là, hạt thìa là đen, lúa mì, lúa mạch, lúa đại mạch— \q1 cấy mỗi loại vào đúng hàng, \q2 và cấy mỗi loại vào đúng chỗ sao? \q1 \v 26 Người nông dân biết phải làm gì, \q2 vì Đức Chúa Trời đã cho anh ta sự hiểu biết. \q1 \v 27 Không ai dùng búa để đập thìa là đen; \q2 nhưng phải đập bằng que. \q1 Không ai dùng bánh xe mà cán thìa là đen; \q2 thay vào đó, phải dùng cái đập lúa. \q1 \v 28 Hạt lúa được xay để làm bánh mì \q2 vì vậy người ta không đập nó mãi. \q1 Người ta dùng bánh xe cán trên lúa, \q2 nhưng không nghiền nát nó. \q1 \v 29 Chúa Hằng Hữu Vạn Quân là Giáo Sư kỳ diệu, \q2 và Ngài ban cho người làm nông khôn ngoan tuyệt vời. \c 29 \s1 Lời Tiên Tri về Giê-ru-sa-lem \q1 \v 1 “Khốn cho A-ri-ên, Thành của Vua Đa-vít. \q2 Năm này qua năm khác, các lễ hội vẫn tổ chức đều đều. \q1 \v 2 Nhưng Ta sẽ giáng tai họa trên ngươi, \q2 rồi ngươi sẽ khóc lóc và sầu thảm. \q1 Vì Giê-ru-sa-lem sẽ trở nên như tên của nó là A-ri-ên, \q2 nghĩa là bàn thờ phủ đầy máu. \q1 \v 3 Ta sẽ chống nghịch ngươi, \q2 bao vây quanh Giê-ru-sa-lem và tấn công tường thành ngươi. \q1 Ta sẽ lập đồn vây hãm các thành lũy \q2 và tiêu diệt nó. \q1 \v 4 Từ nơi đất sâu, ngươi sẽ nói; \q2 từ nơi thấp của bụi đất, lời ngươi sẽ vang vọng lên. \q1 Tiếng nói ngươi sẽ thì thầm từ đất \q2 như tiếng ma quỷ gọi hồn từ mộ địa. \b \q1 \v 5 Nhưng bất chợt, bao kẻ thù ngươi sẽ bị nghiền nát \q2 như những hạt bụi nhỏ li ti. \q1 Những bọn cường bạo sẽ bị đuổi đi \q2 như trấu rác trước cơn gió thổi. \q1 Việc ấy xảy ra thình lình, trong khoảnh khắc. \q1 \v 6 Ta, Chúa Hằng Hữu Vạn Quân sẽ ra tay \q2 dùng sấm sét, động đất, và tiếng ồn lớn, \q2 với gió bão, cơn lốc, và lửa để tiêu diệt chúng. \q1 \v 7 Tất cả quân đội các nước vây đánh nghịch cùng Giê-ru-sa-lem \q2 sẽ tan biến như một giấc mơ! \q1 Những kẻ tấn công tường thành ngươi \q2 sẽ biến mất như một khải tượng ban đêm. \q1 \v 8 Như người đói nằm mơ thấy được ăn \q2 nhưng khi tỉnh dậy vẫn đói. \q1 Như người khát nằm mơ thấy uống nước \q2 nhưng vẫn khô cổ và kiệt sức khi trời sáng. \q1 Đoàn quân các nước tấn công Núi Si-ôn \q2 cũng sẽ như vậy.” \b \q1 \v 9 Ngươi ngạc nhiên và hoài nghi sao? \q2 Ngươi không tin tưởng điều ấy sao? \q2 Vậy cứ đi như bị mù. \q2 Ngươi dại dột, nhưng không vì rượu! \q2 Ngươi lảo đảo, nhưng không vì rượu mạnh! \q1 \v 10 Vì Chúa Hằng Hữu đã làm cho ngươi ngủ mê. \q2 Ngài bịt mắt các tiên tri và trùm đầu các tiên kiến. \p \v 11 Tất cả sự kiện về tương lai trong khải tượng này không khác gì những lời nói đã bị niêm phong trong sách. Khi ngươi đưa sách cho người biết đọc, họ sẽ nói: “Chúng tôi không đọc được vì sách đã niêm phong.” \v 12 Khi ngươi đưa sách cho người không biết đọc, họ sẽ nói: “Chúng tôi không biết đọc.” \q1 \v 13 Vậy, Chúa phán: “Những người này nói họ thuộc về Ta. \q2 Chúng tôn kính Ta bằng môi miệng, \q2 nhưng lòng chúng cách xa Ta lắm. \q1 Việc chúng thờ phượng Ta là vô nghĩa \q2 vì chúng làm theo lệ luật loài người dạy cho. \q1 \v 14 Nên một lần nữa, Ta sẽ làm cho chúng ngỡ ngàng, \q2 với hết việc lạ này đến việc lạ khác. \q1 Sự khôn ngoan của người khôn sẽ qua đi, \q2 và sự thông sáng của người thông minh sẽ biến mất.” \b \q1 \v 15 Khốn cho những người tìm cách che giấu ý đồ khỏi Chúa Hằng Hữu, \q2 những người làm điều ác trong bóng tối! \q1 Chúng nói rằng: “Chúa Hằng Hữu không thể thấy chúng ta. \q2 Ngài không biết việc gì đang xảy ra!” \q1 \v 16 Sao các ngươi có thể dại dột như thế? \q2 Chúa là Thợ Gốm, và hẳn nhiên Ngài vĩ đại hơn các ngươi là đất sét! \p Có thể nào đồ vật được nặn lại dám nói về người nặn ra nó rằng: \q1 “Ông không nặn ra tôi”? \p Hay một cái bình đất dám nói rằng: \q1 “Người thợ gốm tạo ra tôi là dại dột”? \b \q1 \v 17 Chẳng bao lâu nữa, \q2 khu rừng Li-ban sẽ trở nên ruộng phì nhiêu \q2 và ruộng phì nhiêu sẽ sinh hoa lợi dồi dào. \q1 \v 18 Trong ngày ấy, người điếc sẽ nghe đọc lời trong sách, \q2 người mù sẽ thấy được từ trong bóng tối mịt mờ. \q1 \v 19 Người nhu mì sẽ ca mừng trong Chúa Hằng Hữu. \q2 Người nghèo khổ sẽ mừng rỡ trong Đấng Thánh của Ít-ra-ên. \q1 \v 20 Bọn tàn bạo sẽ tiêu tan, \q2 người phỉ báng sẽ biến mất. \q1 Những ai âm mưu tàn ác sẽ bị đánh hạ. \q1 \v 21 Những ai kết án người vô tội \q2 bằng chứng cớ giả dối sẽ biến mất. \q1 Số phận của những kẻ giăng bẫy, người kiện cáo trước tòa \q2 và nói lời dối trá để làm hại người vô tội cũng sẽ như vậy. \p \v 22 Đó là tại sao Chúa Hằng Hữu, Đấng cứu chuộc Áp-ra-ham, đã nói với người Ít-ra-ên rằng: \q1 “Dân Ta sẽ không còn hổ thẹn \q2 hay mặt mày tái xanh nữa. \q1 \v 23 Vì khi chúng thấy nhiều con cái mình, \q2 và tất cả phước lành Ta ban cho chúng, \q2 chúng sẽ ý thức được đức thánh khiết của Đấng Thánh của Ít-ra-ên. \q1 Chúng sẽ cung kính chiêm ngưỡng Đức Chúa Trời của Gia-cốp. \q1 \v 24 Những ai có tâm linh lầm lạc sẽ hiểu biết, \q2 và những ai thường than vãn sẽ được giáo huấn.” \c 30 \s1 Hiệp Ước Vô Dụng của Giu-đa với Ai Cập \q1 \v 1 Chúa Hằng Hữu phán: “Khốn cho con cái bội nghịch của Ta. \q2 Các ngươi thực hiện các kế hoạch không theo ý Ta. \q1 Các ngươi kết liên minh không do Thần Linh Ta, \q2 nên càng chất thêm tội ác cho các ngươi. \q1 \v 2 Vì không hỏi ý Ta, \q2 mà các ngươi đã đi xuống Ai Cập nhờ giúp đỡ. \q1 Các ngươi đặt lòng tin vào sự bảo vệ của Pha-ra-ôn. \q2 Các ngươi ẩn núp dưới bóng của vua ấy. \q1 \v 3 Nhưng bởi tin cậy Pha-ra-ôn, các ngươi sẽ bị sỉ nhục, \q2 và bởi nương tựa vào hắn, các ngươi sẽ bị ruồng bỏ. \q1 \v 4 Cho dù quyền lực hắn bao trùm tận Xô-an \q2 và các quan tướng của hắn đã vào tận Kha-nét, \q1 \v 5 tất cả những ai tin cậy hắn sẽ bị xấu hổ. \q2 Hắn sẽ không bảo vệ các ngươi. \q2 Nhưng sẽ ruồng bỏ các ngươi.” \p \v 6 Đây là lời tiên tri về loài thú tại Nê-ghép: \q1 Từng đoàn người di chuyển chậm chạp \q2 băng qua hoang mạc khủng khiếp đến Ai Cập— \q1 lưng lừa chất đầy của cải \q2 và lạc đà chở đầy châu báu— \q2 tất cả dùng để trả công cho sự che chở của Ai Cập. \q1 Họ băng qua hoang mạc, \q2 nơi có nhiều sư tử đực và sư tử cái, \q2 rắn lục và rắn lửa sinh sống. \q1 Nhưng Ai Cập sẽ chẳng đem lợi gì cho ngươi. \q1 \v 7 Lời hứa của Ai Cập hoàn toàn vô ích! \q2 Vậy nên, Ta gọi nó là Ra-háp—tức Con Rồng Vô Dụng. \s1 Lời Cảnh Báo về Giu-đa Phản Nghịch \q1 \v 8 Bây giờ hãy đi và ghi lại những lời này. \q2 Hãy chép vào cuốn sách. \q2 Để làm chứng cớ đời đời truyền lại ngày sau \q1 \v 9 rằng dân này là một dân tộc nổi loạn, \q2 con cái khước từ lời Chúa Hằng Hữu phán dạy. \p \v 10 Chúng nói với những người tiên kiến rằng: \q1 “Đừng tìm kiếm mặc khải nữa!” \p Chúng nói với các tiên tri: \q1 “Đừng nói cho chúng tôi những điều đúng nữa! \q2 Hãy nói với chúng tôi những điều dễ nghe. \q2 Hãy nói với chúng tôi những điều giả dối. \q1 \v 11 Hãy quên tất cả sầu khổ này. \q2 Hãy rời bỏ con đường chật hẹp. \q2 Đừng nói với chúng tôi về \q2 ‘Đấng Thánh của Ít-ra-ên’ nữa.” \p \v 12 Đây là lời Đấng Thánh của Ít-ra-ên dạy: \q1 “Vì các ngươi khinh thường lời Ta phán dạy, \q2 dựa vào sự đàn áp và mưu gian chước dối, \q1 \v 13 nên thảm họa sẽ giáng trên người thình lình \q2 như bão xô sập một bức tường rạn nứt. \q1 Trong giây lát nó sẽ đổ sập \q2 và tan tành. \q1 \v 14 Các ngươi sẽ vỡ ra từng mảnh như đồ gốm bị đập— \q2 vỡ nát hoàn toàn đến nỗi \q2 không một mảnh đủ lớn để đựng than hồng \q2 hay múc một chút nước.” \q1 \v 15 Đây là lời Chúa Hằng Hữu Chí Cao, \q2 Đấng Thánh của Ít-ra-ên phán: \q1 “Chỉ khi trở về với Ta \q2 và yên nghỉ trong Ta, các ngươi mới được cứu. \q1 Yên lặng và tin cậy là sức mạnh của ngươi. \q2 Nhưng các ngươi lại không muốn thế. \q1 \v 16 Các ngươi nói: ‘Không, chúng tôi sẽ nhờ Ai Cập giúp đỡ. \q2 Họ sẽ cho chúng tôi những con ngựa chiến chạy nhanh nhất.’ \q2 Nhưng sự nhanh nhẹn mà các ngươi thấy \q2 cũng là sự nhanh nhẹn mà kẻ thù đuổi theo các ngươi! \q1 \v 17 Một người trong chúng sẽ đuổi theo nghìn người trong các ngươi. \q2 Năm người trong chúng sẽ khiến toàn dân ngươi chạy trốn. \q1 Các ngươi chỉ còn sót lại như cột cờ trơ trọi trên đồi, \q2 như bảng hiệu rách nát trên đỉnh núi.” \s1 Lời Hứa cho Người Ăn Năn \q1 \v 18 Chúa Hằng Hữu vẫn chờ đợi các ngươi đến với Ngài \q2 để Chúa tỏ tình yêu và lòng thương xót của Ngài. \q1 Vì Chúa Hằng Hữu là Đức Chúa Trời trung tín. \q2 Phước cho ai trông chờ sự trợ giúp của Ngài. \b \q1 \v 19 Hỡi cư dân Si-ôn, là những người sống tại Giê-ru-sa-lem, \q2 các ngươi không còn phải khóc lóc nữa. \q1 Chúa sẽ làm ơn nếu các ngươi kêu xin giúp đỡ. \q2 Vừa nghe tiếng các ngươi, Ngài đã nhậm lời. \q1 \v 20 Dù Chúa cho các ngươi ăn bánh bất hạnh \q2 và uống nước đau thương, \q1 Chúa sẽ vẫn ở cùng các ngươi để dạy dỗ các ngươi. \q2 Các ngươi sẽ tận mắt thấy Đấng dạy các ngươi. \q1 \v 21 Tai các ngươi sẽ nghe tiếng Ngài. \p Ngay phía sau các ngươi sẽ có tiếng nói: \q1 “Đây là đường các ngươi phải đi,” \q2 hoặc qua phải hay qua trái. \q1 \v 22 Rồi các ngươi sẽ tiêu hủy tất cả tượng thần bằng bạc \q2 bằng vàng quý giá. \q1 Các ngươi sẽ ném bỏ chúng như giẻ rách, \q2 và nói với chúng rằng: “Tống khứ hết!” \p \v 23 Lúc ấy, Chúa Hằng Hữu sẽ ban mưa trên hạt giống các ngươi gieo. Các ngươi sẽ thu được rất nhiều hoa lợi và đồng cỏ các ngươi sẽ đầy những gia súc. \v 24 Bò và lừa kéo cày sẽ được ăn lúa tốt, còn trấu thóc bị gió thổi bay đi. \v 25 Trong ngày ấy, khi kẻ thù ngươi bị tàn sát và các tháp canh đổ xuống, thì những suối nước sẽ chảy trên mỗi núi cao, đồi cả. \v 26 Mặt trăng sẽ sáng như mặt trời, và mặt trời sẽ sáng gấp bảy lần—như ánh sáng của bảy ngày gộp lại! Đó là ngày Chúa chữa lành dân Ngài và buộc các vết thương Ngài đã gây cho họ. \s1 Quân Thù Bị Đánh Tan \q1 \v 27 Kìa! Chúa Hằng Hữu từ xa ngự đến \q2 trong cơn phẫn nộ, \q2 như đám lửa tỏa khói dày đặc. \q1 Môi Ngài giận hừng hực; \q2 lời Ngài như lửa thiêu đốt. \q1 \v 28 Hơi thở nóng của Chúa như nước lụt \q2 dâng đến cổ kẻ thù Ngài. \q1 Chúa sẽ sàng lọc các nước kiêu căng để hủy diệt chúng. \q2 Chúa sẽ đặt hàm thiếc trên chúng và dẫn chúng \q2 đến chỗ diệt vong. \b \q1 \v 29 Nhưng dân Chúa sẽ hát một bài ca vui mừng \q2 như những bài ca trong các ngày lễ thánh. \q1 Các ngươi sẽ hân hoan vui mừng \q2 và rập bước theo tiếng sáo trầm bổng, \q2 kéo đến Giê-ru-sa-lem, núi của Chúa Hằng Hữu— \q2 là Tảng Đá của Ít-ra-ên. \q1 \v 30 Chúa Hằng Hữu sẽ cất lên tiếng nói uy nghiêm của Ngài. \q2 Chúa sẽ bày tỏ sức mạnh cánh tay uy quyền của Ngài. \q1 Trong cơn phẫn nộ với lửa hừng thiêu đốt, \q2 với mây đen, bão tố, và mưa đá hãi hùng, \q1 \v 31 Nghe mệnh lệnh của Chúa Hằng Hữu, A-sy-ri sẽ tiêu tan. \q2 Chúa sẽ hạ chúng bằng cây trượng của Ngài. \q1 \v 32 Và như khi Chúa Hằng Hữu hình phạt chúng với cây gậy của Ngài, \q2 dân Ngài sẽ tán dương với tiếng trống và đàn hạc. \q1 Chúa sẽ đưa tay quyền năng của Ngài lên, Ngài sẽ đánh phạt A-sy-ri. \q1 \v 33 Tô-phết—là nơi thiêu đốt— \q2 được chuẩn bị từ xa xưa cho vua A-sy-ri; \q2 là giàn thiêu có cọc cao chất đầy củi. \q1 Hơi thở Chúa Hằng Hữu, như luồng lửa diêm sinh, \q2 sẽ làm nó bốc cháy. \c 31 \s1 Cầu Viện Ai Cập \q1 \v 1 Khốn cho những người tìm sự giúp đỡ của Ai Cập, \q2 tin vào những ngựa chiến, đoàn chiến xa đông đảo, \q1 và dựa vào đội kỵ binh hùng mạnh, \q2 nhưng không tìm cầu Chúa Hằng Hữu, \q1 Đấng Thánh của Ít-ra-ên! \q1 \v 2 Trong sự khôn ngoan của Ngài, Chúa Hằng Hữu sẽ giáng thảm họa; \q2 Ngài sẽ không đổi ý. \q1 Chúa sẽ vùng lên chống nghịch những người làm ác \q2 và những kẻ toa rập với chúng. \q1 \v 3 Vì quân Ai Cập cũng chỉ là con người, không phải là Đức Chúa Trời! \q2 Ngựa chiến của chúng chỉ là xương thịt, không phải thần thánh! \q1 Khi Chúa Hằng Hữu đưa tay ra nghịch lại chúng, \q2 bọn viện quân sẽ trượt chân, \q2 và bọn cầu viện sẽ té ngã. \q1 Tất cả sẽ ngã nhào và chết chung với nhau. \p \v 4 Nhưng đây là điều Chúa Hằng Hữu phán dạy tôi: \q1 “Khi sư tử tơ gầm thét vồ mồi, \q2 nó không đếm xỉa gì đến tiếng la hét \q2 và tiếng khua động ầm ĩ của đám đông chăn chiên. \q1 Cùng cách ấy, Chúa Hằng Hữu Vạn Quân \q2 sẽ ngự xuống và chiến đấu trên Núi Si-ôn. \q1 \v 5 Chúa Hằng Hữu Vạn Quân sẽ bay lượn trên Giê-ru-sa-lem \q2 và bảo vệ nó như chim bảo vệ tổ của mình. \q1 Chúa sẽ che chở và cứu vớt thành; \q2 Chúa sẽ vượt qua và giải nguy nó.” \p \v 6 Dù các ngươi đã phản nghịch, hỡi dân tôi ơi, hãy đến và quay về với Chúa Hằng Hữu. \v 7 Tôi biết ngày vinh quang ấy sẽ đến khi mỗi người trong các ngươi trừ bỏ các tượng thần bằng vàng và hình tượng bằng bạc mà chính tay tội lỗi của các ngươi làm ra. \q1 \v 8 “Người A-sy-ri sẽ bị tiêu diệt, \q2 nhưng không phải bởi gươm của loài người. \q1 Chính gươm của Đức Chúa Trời sẽ đánh tan chúng, \q2 khiến chúng hoảng sợ và trốn chạy. \q1 Và trai tráng của A-sy-ri \q2 sẽ bị bắt làm nô dịch. \q1 \v 9 Ngay cả vương tướng cũng sụm xuống vì kinh hoàng, \q2 và các hoàng tử sẽ trốn chạy khi chúng thấy cờ chiến của các ngươi.” \q1 Đây là lời phán của Chúa Hằng Hữu, lửa của Ngài thiêu đốt tại Si-ôn, \q2 và ngọn lửa của Ngài cháy bừng từ Giê-ru-sa-lem. \c 32 \s1 Sự Giải Cứu Ít-ra-ên trong Ngày Cuối Cùng \q1 \v 1 Kìa, một vị vua công chính đang đến! \q2 Và các vương hầu trung thực sẽ cai trị dưới Ngài. \q1 \v 2 Mỗi người sẽ như lều núp gió \q2 và trại che bão tố, \q1 như những suối nước giữa sa mạc \q2 và bóng mát của vầng đá lớn giữa vùng đất khô hạn. \b \q1 \v 3 Lúc ấy, ai có mắt có thể trông thấy chân lý, \q2 và ai có tai sẽ nghe được. \q1 \v 4 Ngay cả trí của người khờ dại cũng sẽ hiểu biết. \q2 Người cà lăm sẽ nói lưu loát rõ ràng. \q1 \v 5 Trong ngày ấy, người ngu dại bất tín không được coi là cao quý. \q2 Bọn lừa đảo không được trọng vọng. \q1 \v 6 Vì người dại sẽ nói lời điên dại, \q2 và nó chỉ hướng về điều gian ác. \q1 Chúng làm điều vô đạo, \q2 và phổ biến điều sai lạc về Chúa Hằng Hữu. \q1 Chúng tước đoạt thức ăn của người đói \q2 và không cho người khát được uống nước. \q1 \v 7 Mánh khóe của bọn lừa đảo thật thâm độc. \q2 Chúng lập mưu gian. \q1 Chúng đặt điều làm hại người nghèo, \q2 dù họ có lý do chính đáng. \q1 \v 8 Nhưng những người cao thượng hoạch định những việc cao thượng, \q2 và giữ vững tinh thần cao thượng. \q1 \v 9 Hãy nghe, hỡi những phụ nữ nhàn tản. \q2 Hãy nghe tôi, hỡi những phụ nữ tự mãn. \q1 \v 10 Trong thời gian ngắn—chỉ hơn một năm nữa— \q2 các ngươi là người không lo lắng sẽ run rẩy cách bất ngờ. \q1 Vì mùa hoa quả sẽ mất, \q2 và mùa gặt hái sẽ không bao giờ đến. \q1 \v 11 Hãy run sợ, hỡi các phụ nữ nhàn tản, vô tư lự; \q2 hãy vứt bỏ tính tự mãn. \q1 Hãy cởi bỏ áo đẹp, \q2 và mặc bao gai để tỏ sự đau buồn. \q1 \v 12 Các ngươi sẽ đấm ngực thương tiếc những trang trại dồi dào \q2 và các vườn nho sai trái. \q1 \v 13 Vì đất của các ngươi sẽ đầy những gai gốc và bụi rậm. \q2 Những ngôi nhà hân hoan và những thành vui vẻ sẽ biến mất. \q1 \v 14 Các cung điện và thành trì sẽ hoang vu \q2 và các thôn làng vốn đông đảo sẽ vắng vẻ. \q1 Các bầy lừa rừng sẽ nô đùa và bầy thú sẽ dạo chơi \q2 trên những pháo đài và tháp canh trống vắng \q1 \v 15 cho đến khi Thần Linh từ trời đổ xuống trên chúng ta. \q2 Khi ấy, đồng hoang sẽ trở nên đồng ruộng phì nhiêu, \q2 và ruộng tốt sẽ sinh hoa lợi dồi dào. \q1 \v 16 Bấy giờ sự phán xét sẽ cai trị nơi hoang mạc \q2 và sự công chính ở nơi ruộng phì nhiêu. \q1 \v 17 Kết quả của sự công chính là sự bình an. \q2 Phải, bông trái công chính sẽ là yên tĩnh và an ninh vĩnh hằng. \q1 \v 18 Dân tôi sẽ ở nơi bình an, trong nhà yên tĩnh. \q2 Họ sẽ được nơi an nghỉ. \q1 \v 19 Dù nếu rừng rậm bị tàn phá \q2 và thành bị san bằng, \q1 \v 20 Chúa Hằng Hữu sẽ ban phước lớn cho dân Ngài. \q2 Nơi nào họ gieo giống thì cây trái tươi tốt sẽ nở rộ. \q2 Bò và lừa của họ sẽ tự do ăn cỏ khắp nơi. \c 33 \s1 Lời Tiên Tri về A-sy-ri \q1 \v 1 Khốn cho ngươi là người A-sy-ri, ngươi hủy diệt người khác \q2 nhưng chính ngươi chưa bị hủy diệt. \q1 Ngươi phản bội người khác, \q2 nhưng ngươi chưa bị phản bội. \q1 Khi ngươi ngừng hủy diệt, \q2 ngươi sẽ nếm mùi hủy diệt. \q1 Khi ngươi ngừng phản bội \q2 ngươi sẽ bị phản bội! \q1 \v 2 Nhưng lạy Chúa Hằng Hữu, xin thương xót chúng con \q2 vì chúng con trông đợi Ngài! \q1 Xin làm tay chúng con mạnh mẽ mỗi ngày \q2 và là sự giải cứu của chúng con trong lúc gian nguy. \q1 \v 3 Quân thù bỏ chạy khi vừa nghe tiếng Chúa. \q2 Khi Chúa đứng dậy, các dân tộc đều trốn chạy! \q1 \v 4 Như sâu bọ và cào cào hủy phá ruộng và dây nho, \q2 quân bại trận A-sy-ri cũng sẽ bị hủy diệt như vậy. \q1 \v 5 Chúa Hằng Hữu được tôn cao và Ngài ngự trên các tầng trời, \q2 Ngài sẽ khiến Giê-ru-sa-lem, nhà Ngài đầy công bình và chính trực. \q1 \v 6 Trong ngày ấy Chúa sẽ là nền tảng vững chắc cho các ngươi, \q2 một nguồn cứu rỗi dồi dào với khôn ngoan và tri thức. \q1 Lòng kính sợ Chúa Hằng Hữu là kho báu của ngươi. \b \q1 \v 7 Nhưng này, các dũng sĩ kêu than ngoài đường phố. \q2 Các sứ giả hòa bình khóc lóc đắng cay. \q1 \v 8 Đường sá vắng tanh; \q2 không một ai qua lại. \q1 Người A-sy-ri đã xé bỏ hòa ước \q2 và không màng đến lời chúng đã hứa trước các nhân chứng. \q1 Chúng không còn nể trọng ai nữa. \q1 \v 9 Đất Ít-ra-ên thở than sầu thảm. \q2 Li-ban cúi mặt xấu hổ. \q2 Đồng Sa-rôn biến thành hoang mạc. \q2 Ba-san và Cát-mên đều điêu tàn. \q1 \v 10 Nhưng Chúa Hằng Hữu phán: “Bây giờ Ta sẽ đứng dậy! \q2 Bây giờ Ta sẽ tỏ uy quyền và sức mạnh của Ta. \q1 \v 11 Các ngươi, A-sy-ri không sinh sản gì, chỉ toàn cỏ khô và rơm rạ. \q2 Hơi thở ngươi sẽ biến thành ngọn lửa và thiêu hủy ngươi. \q1 \v 12 Dân của ngươi sẽ bị thiêu cháy hoàn toàn, \q2 như bụi gai bị chặt xuống và đốt trong lửa. \q1 \v 13 Các dân tộc ở xa, hãy nghe rõ các việc Ta làm! \q2 Các dân tộc ở gần, hãy nhận thức quyền năng Ta!” \b \q1 \v 14 Các tội nhân ở Giê-ru-sa-lem đều run rẩy kinh hãi. \q2 Đám vô đạo cũng khiếp sợ. \q2 Chúng kêu khóc: “Ai có thể sống trong ngọn lửa hủy diệt? \q2 Ai có thể tồn tại giữa đám lửa cháy đời đời?” \q1 \v 15 Những ai sống ngay thẳng và công bằng, \q2 những ai từ chối các lợi lộc gian tà \q2 những ai tránh xa của hối lộ, \q2 những ai bịt tai không nghe chuyện đổ máu, \q2 những ai nhắm mắt không nhìn việc sai trái— \q1 \v 16 những người này sẽ ngự ở trên cao. \q2 Đá của núi sẽ là pháo đài của họ. \q1 Họ sẽ có thức ăn dư dật, \q2 và họ sẽ có nguồn nước dồi dào. \b \q1 \v 17 Mắt các ngươi sẽ thấy vua trong oai nghi, \q2 và nhìn thấy một vùng đất xa xôi mở rộng trước mặt. \p \v 18 Các ngươi sẽ suy ngẫm về thời gian khủng khiếp và hỏi: \q1 “Các quan chức A-sy-ri \q2 là người đếm các tháp canh của chúng ta ở đâu? \q1 Những thầy ký lục \q2 là người ghi lại của cướp bóc từ thành đổ nát của chúng ta ở đâu?” \q1 \v 19 Các ngươi sẽ không còn thấy dân hung tợn, dữ dằn \q2 nói thứ tiếng lạ hoắc, khó hiểu của chúng nữa. \q1 \v 20 Thay vào đó, các ngươi sẽ thấy Si-ôn là nơi tổ chức lễ hội trọng thể. \q2 Các ngươi sẽ thấy Giê-ru-sa-lem, là thành yên tĩnh và chắc chắn. \q1 Nó sẽ như một cái lều có dây giăng được kéo thẳng \q2 và các cọc trại được đóng xuống chắc chắn.\f + \fr 33:20 \fr*\ft Ctd một cái trại kiên cố không bao giờ rúng động\ft*\f* \q1 \v 21 Chúa Hằng Hữu sẽ là Đấng Oai Nghi của chúng ta. \q2 Chúa sẽ như sông lớn bảo vệ \q2 không cho kẻ thù băng qua, \q2 và tàu lớn cũng không vượt qua nỗi. \q1 \v 22 Vì Chúa Hằng Hữu là Thẩm Phán của chúng ta, \q2 là Đấng Lập Pháp của chúng ta, và là Vua của chúng ta. \q1 Ngài sẽ gìn giữ chúng ta và giải cứu chúng ta. \q1 \v 23 Dây buộc chiến thuyền của kẻ thù đã tuột \q2 khỏi cột buồm bị gẫy không dùng được nữa. \q1 Của cải của chúng sẽ được chia cho dân của Đức Chúa Trời. \q2 Đến người què cũng được chia phần! \q1 \v 24 Người Ít-ra-ên sẽ không còn nói: \q2 “Chúng tôi bệnh hoạn và yếu đuối,” \q2 vì Chúa Hằng Hữu đã tha tội ác cho họ. \c 34 \s1 Lời Tiên Tri cho Các Nước \q1 \v 1 Hỡi các nước trên đất, hãy đến đây và nghe. \q2 Hỡi đất và mọi vật trên đất hãy lắng nghe lời tôi. \q1 \v 2 Vì Chúa Hằng Hữu phẫn nộ chống lại các dân tộc. \q2 Cơn giận của Ngài nghịch cùng các quân đội của chúng. \q1 Ngài sẽ tuyệt diệt chúng hoàn toàn, \q2 để cho\f + \fr 34:2 \fr*\ft Nt phó\ft*\f* chúng bị tàn sát. \q1 \v 3 Xác chết bị vất bừa bãi \q2 và mùi hôi thối xông lên nồng nặc trên đất. \q1 Các núi đồi sẽ đầy máu của chúng. \q1 \v 4 Các tầng trời trên cao sẽ tan ra \q2 và biến mất như cuộn giấy bị cuốn lại. \q1 Các ngôi sao từ trời sẽ rơi rụng \q2 như lá tàn úa từ dây nho, \q2 hay như những trái sung khô héo. \b \q1 \v 5 Gươm Ta đã hoàn tất công việc trên trời, \q2 và sẽ giáng trên Ê-đôm \q2 để đoán phạt dân tộc Ta đã tuyên án. \q1 \v 6 Gươm Chúa Hằng Hữu dính đầy máu và mỡ— \q2 là máu của chiên và dê, \q2 với mỡ của chiên đực chuẩn bị cho tế lễ. \q1 Phải, Chúa Hằng Hữu sẽ cho một cuộc tế lễ lớn tại Bốt-ra. \q2 Chúa sẽ tạo một cuộc tàn sát lớn tại Ê-đôm. \q1 \v 7 Dù một người mạnh như bò rừng cũng sẽ chết— \q2 một người trẻ sẽ ngã gục cạnh chiến binh. \q1 Cả xứ sẽ thấm đầy máu \q2 và bụi đất sẽ thấm đầy mỡ. \q1 \v 8 Vì đó là ngày của Chúa Hằng Hữu báo thù, \q2 năm mà Ê-đôm phải trả lại mọi thứ cho Ít-ra-ên. \q1 \v 9 Sông suối Ê-đôm sẽ biến thành nhựa chai, \q2 và đất đai nó thành nhựa cháy. \q1 \v 10 Cuộc đoán phạt Ê-đôm sẽ không bao giờ dứt; \q2 khói bay lên cho đến đời đời. \q1 Đất sẽ bị bỏ hoang đời này sang đời khác. \q2 Không một ai sống ở đó nữa. \q1 \v 11 Đó là nơi ở của nhím và bồ nông, \q2 chim cú và quạ. \q1 Vì Đức Chúa Trời sẽ đo xứ cách cẩn trọng; \q2 Chúa sẽ đo xứ vì sự hỗn độn và tàn phá. \q1 \v 12 Nó sẽ được gọi là Đất Trống Không, \q2 và tất cả đám quý tộc sẽ biến đi. \q1 \v 13 Gai gốc sẽ mọc lấp cung điện; \q2 gai nhọn sẽ che các công sự. \q1 Chốn đổ nát sẽ là nơi lui tới của chó rừng \q2 và là nhà của chim cú. \q1 \v 14 Tại đó, thú sa mạc sẽ trộn lẫn với linh cẩu, \q2 chúng hú gọi suốt đêm. \q1 Dê đực sẽ gọi đàn giữa đổ nát, \q2 và ban đêm các loài thú kéo về nghỉ ngơi. \q1 \v 15 Tại đó, chim cú sẽ làm ổ và đẻ trứng. \q2 Chúng ấp trứng và bảo bọc con dưới cánh mình. \q1 Diều hâu cũng sẽ tụ họp \q2 mỗi lần một đôi. \q1 \v 16 Hãy tìm sách của Chúa Hằng Hữu, \q2 và xem những việc Ngài sẽ làm. \q1 Không thiếu một con chim hay con thú nào, \q2 và không một con nào lẻ cặp, \q2 vì Chúa Hằng Hữu đã hứa điều này. \q1 Thần của Ngài sẽ biến tất cả thành sự thật. \q1 \v 17 Chúa đã đo đạc, chia đất, \q2 bắt thăm cho mọi thú vật. \q1 Chúng sẽ chiếm hữu mãi mãi \q2 từ đời này sang đời khác. \c 35 \s1 Niềm Vui Mừng Lớn \q1 \v 1 Ngay cả đồng hoang và sa mạc cũng sẽ vui mừng trong những ngày đó. \q2 Đất hoang sẽ hớn hở và trổ hoa sặc sỡ. \q1 \v 2 Phải, sẽ có dư dật hoa nở rộ \q2 và vui mừng trổi giọng hát ca! \q1 Sa mạc sẽ trở nên xanh như núi Li-ban, \q2 như vẻ đẹp của Núi Cát-mên hay đồng Sa-rôn. \q1 Nơi đó Chúa Hằng Hữu sẽ tỏ vinh quang Ngài, \q2 và vẻ huy hoàng của Đức Chúa Trời chúng ta. \q1 \v 3 Với tin này, hãy làm vững mạnh những cánh tay yếu đuối \q2 và tăng cường các đầu gối suy nhược.\f + \fr 35:3 \fr*\ft Ctd hay vấp ngã\ft*\f* \q1 \v 4 Hãy khích lệ những người ngã lòng: \q2 “Hãy mạnh mẽ, đừng khiếp sợ, \q2 vì Đức Chúa Trời của ngươi sẽ đến diệt kẻ thù của ngươi. \q1 Ngài sẽ đến để giải cứu ngươi.” \b \q1 \v 5 Lúc đó, mắt người mù sẽ sáng, \q2 tai người điếc sẽ nghe. \q1 \v 6 Người què sẽ nhảy nhót như hươu, \q2 người câm sẽ ca hát vui mừng. \q1 Suối ngọt sẽ phun lên giữa đồng hoang, \q2 sông ngòi sẽ tưới nhuần hoang mạc. \q1 \v 7 Đất khô nẻ sẽ trở thành hồ ao, \q2 miền cát nóng nhan nhản những giếng nước. \q1 Hang chó rừng đã ở sẽ trở nên vùng sậy và lau.\f + \fr 35:7 \fr*\ft Nt nơi ở của loài rồng sẽ có cỏ, lau, sậy\ft*\f* \q1 \v 8 Một đường lớn sẽ chạy suốt qua cả xứ. \q2 Nó sẽ được gọi là Đường Thánh. \q2 Những người ô uế sẽ không được đi qua. \q2 Nó chỉ dành cho người bước đi trong đường lối Đức Chúa Trời; \q2 những kẻ ngu dại sẽ chẳng bao giờ đi trên đó. \q1 \v 9 Sư tử sẽ không ẩn náu dọc đường, \q2 hay bất kỳ thú dữ nào khác. \q1 Nơi ấy sẽ không còn nguy hiểm. \q2 Chỉ những người được cứu mới đi trên đường đó. \q1 \v 10 Những ai được Chúa Hằng Hữu cứu sẽ trở về. \q2 Họ sẽ vào Giê-ru-sa-lem trong tiếng hát, \q2 sự vui mừng mãi mãi trên đầu họ. \q1 Mọi sầu khổ và buồn đau sẽ biến mất, \q2 niềm hân hoan bất tận ngập tràn. \c 36 \s1 A-sy-ri Xâm Chiếm Giu-đa (Phần Lịch Sử, từ 36:1 đến 39:8) \p \v 1 Vào năm thứ mười bốn đời Ê-xê-chia, San-chê-ríp, vua A-sy-ri đem quân đánh chiếm tất cả thành kiên cố của Giu-đa. \v 2 Rồi vua A-sy-ri sai một tướng lãnh của mình từ La-ki mang một đội quân hùng hậu tấn công Vua Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Quân A-sy-ri dừng ngựa bên kênh dẫn nước từ ao trên, gần đường dẫn đến cánh đồng thợ giặt. \p \v 3 Đây là các quan chức đi ra để gặp họ: Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quản đốc hoàng cung; Sép-na, quan ký lục; và Giô-a, con A-sáp, quan ngự sử. \s1 San-chê-ríp Đe Dọa Giê-ru-sa-lem \p \v 4 Quan chỉ huy của Vua A-sy-ri bảo họ nói thông điệp này với Ê-xê-chia: \pm “Đây là điều đại đế A-sy-ri sai ta truyền lệnh với vua Ê-xê-chia: Điều gì khiến ngươi tin tưởng chắc chắn như thế? \v 5 Ngươi nghĩ rằng chỉ vào lời nói có thể thay thế đội quân tinh nhuệ và hùng mạnh sao? Vua dựa vào ai để chống lại ta? \v 6 Dựa vào Ai Cập chăng? Này, ngươi dựa vào Ai Cập, như dựa vào cây sậy đã gãy, ai dựa vào sẽ bị đâm lủng tay. Pha-ra-ôn, vua Ai Cập cũng như vậy đối với người nhờ cậy hắn! \pm \v 7 Có lẽ vua sẽ nói: ‘Chúng tôi trông cậy Chúa Hằng Hữu là Đức Chúa Trời chúng tôi!’ Nhưng chẳng lẽ Chúa không biết người lăng mạ Ngài là Ê-xê-chia sao? Không phải Ê-xê-chia đã phá bỏ các nơi thờ phượng và các bàn thờ của Ngài và bắt mọi người trong Giu-đa và Giê-ru-sa-lem chỉ được quỳ lạy trước một bàn thờ duy nhất trong Giê-ru-sa-lem sao? \pm \v 8 Ta cho người biết việc này! Hãy đánh cuộc với chủ của ta, là vua nước A-sy-ri. Ta sẽ cho vua 2.000 con ngựa nếu ngươi có thể tìm được 2.000 kỵ binh! \v 9 Với quân đội nhỏ bé của ngươi, lẽ nào ngươi nghĩ ngươi có thể chống lại dù là một tướng yếu nhất trong thuộc hạ của chủ ta, hay dù ngươi cậy vào các quân xa và các kỵ binh của Ai Cập? \v 10 Còn nữa, ngươi nghĩ rằng nếu không có lệnh của Chúa Hằng Hữu, chúng ta dám xâm chiếm xứ này sao? Chính Chúa Hằng Hữu đã bảo chúng ta rằng: ‘Hãy tấn công xứ này và tiêu diệt nó!’ ” \p \v 11 Ê-li-a-kim, Sép-na, và Giô-a nói với trưởng quan của A-sy-ri rằng: “Xin dùng tiếng A-ram nói với chúng tôi, vì chúng tôi hiểu tiếng A-ram. Xin đừng dùng tiếng Hê-bơ-rơ, kẻo dân trên tường thành nghe được.” \p \v 12 Nhưng trưởng quan San-chê-ríp đáp: “Ngươi nghĩ rằng chủ ta chỉ gửi thông điệp này cho ngươi và chủ ngươi thôi sao? Người còn muốn tất cả dân chúng đều nghe được, vì khi chúng ta vây hãm thành này thì họ sẽ cũng chịu khổ với ngươi. Các ngươi sẽ đói và khát đến nỗi ăn phân và uống nước tiểu của chính mình.” \p \v 13 Rồi vị trưởng quan đứng dậy và dùng tiếng Hê-bơ-rơ nói lớn cho dân trên tường thành nghe: “Hãy nghe thông điệp từ đại đế A-sy-ri! \v 14 Đây là điều vua nói: Đừng để Ê-xê-chia đánh lừa các ngươi. Ông ấy không có khả năng bảo vệ các ngươi đâu. \v 15 Đừng để ông ấy dụ các ngươi trông cậy vào Chúa Hằng Hữu bằng cách nói rằng: ‘Chắc chắn Chúa Hằng Hữu sẽ giải cứu chúng ta. Thành này sẽ không bao giờ rơi vào tay vua A-sy-ri.’ \p \v 16 Đừng nghe theo Ê-xê-chia! Đây là điều vua A-sy-ri cam kết: Hãy thiết lập hòa bình với ta—hãy mở cửa thành và bước ra ngoài. Mỗi người trong các ngươi vẫn được tiếp tục ăn trái nho và trái vả của mình, cùng uống nước giếng của mình. \v 17 Ta sẽ sắp đặt cho các ngươi một vùng đất khác giống như vậy—là xứ sở của thóc lúa và rượu mới, bánh mì và những vườn nho. \p \v 18 Đừng để Ê-xê-chia dẫn dụ các ngươi bằng cách nói rằng: ‘Chúa Hằng Hữu sẽ giải cứu chúng ta!’ Có thần nào của các dân tộc từng giải cứu dân mình khỏi tay vua A-sy-ri không? \v 19 Thần của Ha-mát và Ác-bác đã làm được gì? Còn các thần của Sê-phạt-va-im thì sao? Có thần nào giải cứu nổi Sa-ma-ri khỏi tay ta không? \v 20 Có thần nào của nước ấy có thể giải cứu dân mình khỏi quyền lực của ta? Vậy điều gì khiến các ngươi nghĩ rằng Chúa Hằng Hữu có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta?” \p \v 21 Nhưng dân chúng đều im lặng, không ai đối đáp một lời, vì Ê-xê-chia đã ra lệnh cho họ: “Đừng trả lời hắn.” \p \v 22 Rồi Ê-li-a-kim, con Hinh-kia, quản đốc hoàng cung; Sép-na, quan ký lục; và Giô-a, con A-sáp, quan ngự sử, trở về cung Ê-xê-chia. Họ xé áo mình rồi đến gặp vua và kể lại những gì các trưởng quan của A-sy-ri đã nói. \c 37 \s1 Ê-xê-chia Tìm Cầu Chúa Hằng Hữu Giúp Đỡ \p \v 1 Vua Ê-xê-chia vừa nghe xong các lời báo, vua liền xé áo mình và mặc áo vải gai\f + \fr 37:1 \fr*\ft Nt áo tang\ft*\f* rồi đi vào Đền Thờ của Chúa Hằng Hữu. \v 2 Vua cũng sai Ê-li-a-kim, quản đốc hoàng cung, Sép-na, quan ký lục, và các lãnh đạo thầy tế lễ, tất cả đều mặc áo vải gai, đến gặp Tiên tri Y-sai, con A-mốt. \v 3 Họ nói với ông rằng: “Đây là điều Vua Ê-xê-chia nói: Hôm nay là ngày rối loạn, lăng mạ, và sỉ nhục.\f + \fr 37:3 \fr*\ft Ctd khinh miệt\ft*\f* Nó như một đứa trẻ sắp ra đời, mà người mẹ không có sức lực để sinh con. \v 4 Nhưng có lẽ Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của ông đã nghe lời của các trưởng quan A-sy-ri được sai đến để nói lời nhạo báng Đức Chúa Trời hằng sống, và sẽ phạt vua vì những lời vua ấy đã nói. Ôi, xin ông cầu nguyện cho chúng tôi là những người còn lại đây!” \p \v 5 Sau khi các cận thần của Vua Ê-xê-chia thuật lại lời vua cho Y-sai, \v 6 vị tiên tri đáp: “Hãy nói với chủ của ngươi rằng: ‘Đây là lời Chúa Hằng Hữu phán: Đừng sợ vì những lời nhạo báng chống nghịch Ta từ thuộc hạ của vua A-sy-ri. \v 7 Hãy nghe đây! Chính Ta sẽ chống nghịch nó, và vua sẽ nhận một tin khẩn cấp tại quê hương mình. Vì vậy, nó sẽ quay về, là nơi Ta sẽ khiến nó bị gươm giết chết.’” \p \v 8 Trong khi ấy, các trưởng quan A-sy-ri rời Giê-ru-sa-lem và đến hội kiến với vua A-sy-ri tại Líp-na, vì hay tin vua vừa rời khỏi La-ki và tiến đánh thành này. \p \v 9 Ngay sau đó, Vua San-chê-ríp nhận được tin Vua Tiệt-ha-ca, nước Ê-thi-ô-pi, đang lãnh đạo đội quân tiến đánh mình. Trước khi nghênh chiến, vua bèn sai các sứ giả trở lại gặp Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem với thông điệp: \b \p \v 10 “Đây là thông điệp cho Vua Ê-xê-chia, nước Giu-đa. Đừng để Đức Chúa Trời của vua, là Đấng mà vua tin cậy, lừa gạt vua với lời hứa rằng Giê-ru-sa-lem sẽ không bị vua A-sy-ri xâm chiếm. \v 11 Vua đã biết những chiến thắng hiển hách của các vua A-sy-ri đã làm tại những nơi họ đi qua. Họ đã tiêu diệt hoàn toàn nước nào họ đến! Chẳng lẽ chỉ có vua thoát khỏi? \v 12 Có thần nào—tức các thần của các dân tộc: Gô-xan, Ha-ran, Rê-sép, và Ê-đen tại Tê-la-sa—cứu được họ chăng? Cha ông của ta đã diệt họ tất cả! \v 13 Vua Ha-mát và vua Ác-bác đã làm gì? Còn vua của Sê-phạt-va-im, Hê-na, và Y-va bây giờ ở đâu?” \b \p \v 14 Sau khi Ê-xê-chia nhận thư từ tay các sứ giả và đọc xong, vua lập tức lên Đền Thờ của Chúa Hằng Hữu, và trải thư ra trước mặt Chúa Hằng Hữu. \v 15 Ê-xê-chia khẩn thiết cầu nguyện trước mặt Chúa Hằng Hữu: \v 16 “Ôi, lạy Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên, Ngài đang ngự giữa các thiên thần! Chỉ có Chúa là Đức Chúa Trời của các vương quốc trên thế gian. Chính Chúa đã tạo nên trời và đất. \v 17 Lạy Chúa Hằng Hữu xin đoái nghe! Xin mở mắt Ngài, Lạy Chúa Hằng Hữu, xin nhìn! Xin nghe những lời San-chê-ríp đã phỉ báng Đức Chúa Trời Hằng Sống. \p \v 18 Đó là sự thật, thưa Chúa Hằng Hữu, các vua A-sy-ri đã tiêu diệt tất cả các dân tộc này. \v 19 Và họ ném các thần của các nước này vào lò lửa để thiêu hủy chúng. Nhưng dĩ nhiên người A-sy-ri đã tiêu diệt chúng! Vì chúng không phải là thần—mà chỉ là những tượng bằng gỗ và bằng đá do tay người làm ra. \v 20 Bây giờ, thưa Chúa Hằng Hữu là Đức Chúa Trời của chúng con, xin giải cứu chúng con khỏi tay vua ấy; rồi tất cả vương quốc trên thế gian sẽ nhìn biết chỉ có Chúa, lạy Chúa Hằng Hữu, là Đức Chúa Trời.” \s1 Sự Sụp Đổ của San-chê-ríp \p \v 21 Y-sai, con A-mốt, sai người đến thưa với Ê-xê-chia: “Đây là điều Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên phán: Bởi vì con đã cầu xin về Vua San-chê-ríp, nước A-sy-ri, \v 22 Chúa Hằng Hữu đã phán nghịch về nó: \q1 Các trinh nữ ở Si-ôn chê cười ngươi. \q2 Con gái Giê-ru-sa-lem lắc đầu chế nhạo ngươi. \q1 \v 23 Ai mà ngươi lăng nhục và xúc phạm? \q2 Ngươi cất cao giọng chống nghịch ai? \q2 Ai mà ngươi dám nhìn với con mắt ngạo mạn? \q2 Đó là Đấng Thánh của Ít-ra-ên! \q1 \v 24 Ngươi đã dùng các thuộc hạ để phỉ báng Chúa. \q2 Ngươi nói rằng: ‘Nhờ vô số chiến xa, \q2 ta đã chinh phục các đỉnh núi cao nhất— \q2 phải, những mỏm núi hẻo lánh của Li-ban. \q1 Ta đã đốn hạ các cây bá hương cao vút \q2 và các cây bách tốt nhất. \q1 Ta sẽ lên đến tột đỉnh \q2 và thám hiểm những khu rừng sâu nhất. \q1 \v 25 Ta đã đào giếng tốt trong nhiều vùng đất ngoại quốc \q2 và làm thỏa mãn ta bằng nguồn nước của họ. \q1 Chỉ với bàn chân của ta, \q2 ta đã làm khô cạn sông ngòi của Ai Cập!’ \b \q1 \v 26 Nhưng ngươi không nghe sao? \q2 Ta đã quyết định điều này từ lâu. \q1 Từ xưa, Ta đã hoạch định rồi \q2 và bây giờ Ta đem ra thực hiện. \q1 Ta hoạch định cho ngươi phá các thành lũy kiên cố \q2 thành đống đổ nát điêu tàn. \q1 \v 27 Đó là tại sao dân của chúng chỉ còn chút sức lực, \q2 vô cùng hoảng sợ và rối loạn. \q1 Họ yếu như cọng cỏ, \q2 dễ bị giẫm đạp như chồi non xanh. \q1 Họ như rêu trên mái nhà, chưa trổ mà đã héo. \b \q1 \v 28 Nhưng Ta biết rõ ngươi— \q2 nơi ngươi ở \q2 và khi ngươi đến và đi. \q1 Ta biết cả khi ngươi nổi giận nghịch cùng Ta. \q1 \v 29 Và vì ngươi giận Ta, \q2 những lời ngạo mạn của ngươi đã thấu tai Ta, \q1 Ta sẽ tra khoen vào mũi ngươi \q2 và đặt khớp vào miệng ngươi. \q1 Ta sẽ khiến ngươi trở về \q2 bằng con đường ngươi đã đến.” \p \v 30 Rồi Y-sai nói với Ê-xê-chia: “Đây là dấu hiệu cho những gì tôi nói là đúng: \q1 Năm nay, ngươi sẽ ăn những gì tự nó mọc lên, \q2 sang năm ngươi cũng ăn những gì mọc ra từ mùa trước. \q1 Nhưng đến năm thứ ba, ngươi hãy gieo trồng rồi gặt hái; \q2 ngươi hãy trồng nho rồi ăn trái của chúng. \q1 \v 31 Và ai còn sót trong Giu-đa, \q2 những người thoát khỏi những hoạn nạn, \q1 sẽ châm rễ mới xuống chính đất của ngươi \q2 rồi lớn lên và thịnh vượng. \q1 \v 32 Vì dân sót của Ta sẽ tràn ra từ Giê-ru-sa-lem, \q2 là nhóm người sống sót từ Núi Si-ôn. \q1 Lời hứa nhiệt thành của Chúa Hằng Hữu Vạn Quân \q2 sẽ làm thành các điều ấy thành tựu! \p \v 33 Và đây là điều Chúa Hằng Hữu phán về vua A-sy-ri: \q1 ‘Đội quân của nó sẽ không vào được Giê-ru-sa-lem. \q2 Dù một mũi tên cũng không vào được. \q1 Chúng sẽ không dàn quân ngoài cổng thành với thuẫn, \q2 hay không đắp lũy để công phá tường thành. \q1 \v 34 Vua sẽ trở về nước của mình \q2 theo đúng con đường nó đã đến. \q1 Nó sẽ không vào được thành này.’ \q2 Chúa Hằng Hữu phán vậy. \q1 \v 35 ‘Vì Danh Ta và vì Đa-vít, đầy tớ Ta, \q2 Ta sẽ che chở thành này và bảo vệ nó.’” \p \v 36 Ngay đêm ấy, thiên sứ của Chúa Hằng Hữu đến các đồn trại A-sy-ri giết 185.000 người A-sy-ri. Sáng hôm sau, khi người A-sy-ri thức dậy, chúng thấy xác chết nằm ngổn ngang khắp nơi. \v 37 Rồi Vua San-chê-ríp, nước A-sy-ri, bỏ trại và quay về xứ sở mình. Vua về quê hương mình là thành Ni-ni-ve và ở luôn tại đó. \p \v 38 Một hôm, khi vua đang quỳ lạy trong đền thờ Hít-róc, thần của mình, thì bị hai con trai là A-tra-mê-léc và Sa-rết-sê giết chết bằng gươm. Rồi chúng trốn qua xứ A-ra-rát, một con trai khác là Ê-sạt-ha-đôn lên ngôi vua A-sy-ri. \c 38 \s1 Ê-xê-chia Lâm Bệnh và Hồi Phục \p \v 1 Trong thời gian Ê-xê-chia bị bệnh nặng gần chết thì Tiên tri Y-sai, con A-mốt đến thăm vua. Ông truyền cho vua sứ điệp này: “Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: ‘Vua nên xếp đặt mọi việc trong gia đình vì vua sắp qua đời. Vua không sống được nữa.’ ” \p \v 2 Khi Ê-xê-chia nghe điều này, ông quay mặt vào tường và khẩn thiết cầu xin Chúa Hằng Hữu: \v 3 “Lạy Chúa Hằng Hữu, con nài xin Ngài nhớ lại con vẫn sống trung tín với Chúa và làm điều ngay trước mặt Ngài.” Rồi Ê-xê-chia đau khổ và khóc thảm thiết. \p \v 4 Bấy giờ Chúa Hằng Hữu phán cùng Y-sai sứ điệp này: \v 5 “Hãy trở lại với Ê-xê-chia và nói với vua rằng: ‘Đây là điều Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của tổ phụ con là Đa-vít, đã phán: Ta đã nghe lời cầu nguyện con và thấy nước mắt con. Ta sẽ cho con sống thêm mười lăm năm nữa, \v 6 và Ta sẽ giải cứu con và thành này khỏi tay vua A-sy-ri. Phải, Ta sẽ bảo vệ thành này. \p \v 7 Đây là dấu hiệu từ Chúa Hằng Hữu xác nhận rằng Ngài sẽ làm như điều Ngài đã hứa: \v 8 Này, Ta sẽ đem bóng mặt trời lui mười bậc trên bàn trắc ảnh mặt trời của A-cha.’” Vậy, bóng trên bàn trắc ảnh mặt trời liền lui lại mười bậc. \s1 Bài Thơ Ngợi Tôn của Ê-xê-chia \p \v 9 Khi Vua Ê-xê-chia được chữa lành, ông viết bài thơ này: \q1 \v 10 Tôi nói: “Vào thời điểm tốt đẹp nhất của đời tôi, \q2 lẽ nào tôi phải vào nơi âm phủ? \q1 Lẽ nào tôi bị tước đoạt những năm còn lại của đời mình?” \q1 \v 11 Tôi nói: “Chẳng bao giờ tôi còn thấy Chúa Hằng Hữu, \q2 là Đức Chúa Trời trên đất của người sống. \q1 Chẳng bao giờ tôi còn thấy bạn bè \q2 hay những người sống trong trần gian. \q1 \v 12 Đời sống tôi đã bị thổi bay \q2 như lều của người chăn trong cơn giông bão. \q1 Chúa rút ngắn đời sống tôi \q2 như thợ dệt cắt canh chỉ. \q1 Bất thình lình, đời tôi chấm dứt. \q1 \v 13 Suốt đêm, tôi kiên nhẫn đợi chờ \q2 nhưng tôi bị xé từng mảnh như sư tử. \q1 Bất thình lình, đời tôi chấm dứt. \q1 \v 14 Trong cơn mê, tôi líu lo như nhạn hay sếu, \q2 và rồi rên rỉ như bồ câu than khóc. \q1 Đôi mắt mỏi mòn vì cố nhìn lên trời mong cứu giúp. \q2 Con đang sầu khổ, lạy Chúa Hằng Hữu. \q2 Xin Ngài cứu giúp con!” \b \q1 \v 15 Nhưng tôi có thể nói gì đây? \q2 Vì chính Chúa đã cho bệnh tật này. \q1 Bây giờ, trọn đời tôi sẽ bước đi cung kính \q2 vì cơn đắng cay tôi đã trải qua. \q1 \v 16 Lạy Chúa, kỷ luật của Chúa là tốt lành \q2 vì nó đem lại sự sống và sức khỏe. \q1 Chúa đã phục hồi sức khỏe tôi và cho tôi sống! \q1 \v 17 Thật vậy, cay đắng này đã giúp ích cho tôi, \q2 vì Chúa đã cứu tôi khỏi sự chết \q2 và tha thứ mọi tội lỗi của tôi. \q1 \v 18 Vì âm phủ không thể ngợi tôn Chúa; \q2 chúng không thể cất tiếng tôn ngợi Ngài. \q1 Những người đi xuống mộ huyệt \q2 không còn hy vọng vào sự thành tín Ngài nữa. \q1 \v 19 Chỉ những người còn sống mới ca ngợi Chúa như tôi làm hôm nay. \q2 Mỗi thế hệ hãy nói về sự thành tín của Chúa cho thế hệ mai sau. \q1 \v 20 Hãy suy ngẫm—Chúa Hằng Hữu đã chữa lành tôi! \q2 Tôi sẽ hát tôn vinh Chúa hòa cùng tiếng đàn, \q1 mỗi ngày của cuộc đời tôi \q2 trong Đền Thờ của Chúa Hằng Hữu. \p \v 21 Y-sai nói với các đầy tớ của Ê-xê-chia rằng: “Hãy lấy trái vả thoa trên chỗ ung nhọt, thì Ê-xê-chia sẽ được lành.” \p \v 22 Vua Ê-xê-chia hỏi lại: “Có dấu hiệu nào cho biết ta còn được lên Đền Thờ của Chúa Hằng Hữu không?” \c 39 \s1 Phái Đoàn Ba-by-lôn \p \v 1 Không lâu sau đó, Mê-rô-đác Ba-la-đan, con Ba-la-đan, vua Ba-by-lôn, sai người đến chúc mừng và tặng lễ vật cho Ê-xê-chia vì nghe rằng Ê-xê-chia bị bệnh rất nặng và đã được hồi phục. \v 2 Ê-xê-chia vui mừng đón tiếp các sứ thần Ba-by-lôn và chỉ cho họ xem mọi thứ trong kho báu của vua—nào bạc, vàng, hương liệu, và dầu thơm. Vua còn cho họ xem kho vũ khí và tất cả bảo vật trong cung vua cùng tất cả mọi vật trong hoàng cung hay vương quốc, không chừa thứ gì. \p \v 3 Tiên tri Y-sai đến gặp vua Ê-xê-chia và hỏi: “Những người đó muốn gì? Họ từ đâu đến?” \p Ê-xê-chia đáp: “Họ đến từ một xứ xa tận Ba-by-lôn.” \p \v 4 Y-sai lại hỏi: “Vua cho họ xem những gì trong cung điện?” \p Ê-xê-chia đáp: “Họ xem tất cả. Ta cho họ xem mọi thứ ta có—tất cả trong kho báu hoàng cung.” \p \v 5 Rồi Y-sai thưa cùng Ê-xê-chia: “Xin vua nghe lời Chúa Hằng Hữu Vạn Quân: \v 6 ‘Này, trong thời gian sắp đến, mọi thứ trong cung điện ngươi—kể cả những bảo vật tổ phụ ngươi đã cất giữ cho đến bây giờ—sẽ bị đem qua Ba-by-lôn, không sót một thứ gì.’ Chúa Hằng Hữu phán vậy. \v 7 ‘Một số con cháu của ngươi sẽ bị bắt lưu đày. Các con cháu ấy sẽ phải làm quan hoạn phục vụ trong cung điện của vua Ba-by-lôn.’” \p \v 8 Vua Ê-xê-chia nói với Y-sai: “Lời Chúa Hằng Hữu mà ông vừa thuật lại thật tốt lành.” Vì vua nghỉ rằng: “Ít ra trong đời ta cũng hưởng được thái bình và an ninh.” \c 40 \s1 Dân Đức Chúa Trời Được An Ủi \q1 \v 1 Đức Chúa Trời của các ngươi phán: \q2 “Hãy an ủi, an ủi\f + \fr 40:1 \fr*\ft Nt tận tình an ủi\ft*\f* dân Ta! \q1 \v 2 Hãy nói với Giê-ru-sa-lem cách dịu dàng. \q2 Cho chúng biết rằng những ngày buồn đã qua, \q2 và tội lỗi chúng đã được xóa. \q1 Phải, Chúa Hằng Hữu đã hình phạt chúng gấp đôi \q2 số tội lỗi chúng đã phạm.” \q1 \v 3 Hãy lắng nghe! Có tiếng ai gọi lớn: \q2 “Hãy mở một con đường trong hoang mạc \q2 cho Chúa Hằng Hữu! \q1 Hãy dọn một đại lộ thẳng tắp trong đồng hoang \q2 cho Đức Chúa Trời chúng ta! \q1 \v 4 Hãy lấp cho đầy các thung lũng, \q2 và san bằng các núi và các đồi. \q1 Hãy sửa cho thẳng những đường quanh co, \q2 và dọn các nơi gồ ghề lởm chởm cho phẳng phiu. \q1 \v 5 Lúc ấy, vinh quang Chúa Hằng Hữu sẽ hiện ra \q2 và tất cả cư dân sẽ đều nhìn thấy. \q1 Chúa Hằng Hữu đã phán vậy!” \b \q1 \v 6 Có tiếng gọi: “Hãy kêu lên!” \q2 Tôi hỏi: “Tôi phải nói gì?” \b \q1 “Hãy nói lớn rằng loài người giống như cây cỏ. \q2 Sắc đẹp của nó sẽ chóng phai tàn \q2 như hoa trong đồng nội. \q1 \v 7 Cỏ khô héo và hoa úa tàn \q2 dưới hơi thở của Chúa Hằng Hữu. \q1 Loài người cũng sẽ như vậy. \q1 \v 8 Cỏ khô héo và hoa úa tàn, \q2 nhưng lời của Đức Chúa Trời chúng ta vẫn vững mãi đời đời.” \b \q1 \v 9 Hỡi Si-ôn, là sứ giả báo tin mừng, \q2 hãy kêu lên từ đỉnh núi cao! \q1 Kêu lớn lên, hỡi Giê-ru-sa-lem, \q2 hãy kêu lớn lên, đừng sợ hãi. \q1 Hãy nói với các thành Giu-đa rằng: \q2 “Đức Chúa Trời của các ngươi đang đến!” \q1 \v 10 Phải, Chúa Hằng Hữu Chí Cao đang đến trong quyền năng. \q2 Chúa sẽ dùng cánh tay mạnh mẽ để cai trị. \q2 Kìa, Chúa đem theo phần thưởng\f + \fr 40:10 \fr*\ft Nt giải thưởng và tiền công\ft*\f* với Chúa khi Ngài đến. \q1 \v 11 Chúa sẽ chăn bầy Ngài như người chăn. \q2 Ngài sẽ bồng ẵm các chiên con trong tay Ngài, \q2 ôm chúng trong lòng Ngài. \q1 Ngài sẽ nhẹ nhàng dẫn các chiên mẹ với con của chúng. \s1 Quyền Năng và Khôn Ngoan của Chúa Hằng Hữu \q1 \v 12 Ai đã lường nước biển với lòng bàn tay? \q2 Ai đã lấy gang tay đo các tầng trời? \q1 Ai đã lấy đấu đong bụi đất, lấy cân mà cân núi, \q2 hay làm cho các đồi thăng bằng? \q1 \v 13 Ai có thể khuyên bảo Thần của Chúa Hằng Hữu? \q2 Ai có thể làm cố vấn hay chỉ dạy Ngài? \q1 \v 14 Chúa Hằng Hữu có bao giờ cần ý kiến của ai chăng? \q2 Có phải Ngài có cần hướng dẫn làm điều đúng? \q1 Ai dạy Ngài con đường công chính \q2 hay chỉ cho Ngài biết con đường công lý?\f + \fr 40:14 \fr*\ft Ctd tri thức\ft*\f* \q1 \v 15 Không, vì tất cả dân tộc trên thế giới \q2 chỉ như giọt nước trong thùng. \q1 Họ không hơn gì \q2 hạt bụi nằm trên cân. \q1 Chúa nhấc trái đất lên \q2 như nâng lên một hạt bụi.\f + \fr 40:15 \fr*\ft Nt di chuyển\ft*\f* \q1 \v 16 Tất cả gỗ trong rừng Li-ban \q2 và mọi thú rừng Li-ban cũng không đủ \q2 để làm tế lễ thiêu dâng lên Đức Chúa Trời chúng ta. \q1 \v 17 Mọi dân tộc trên thế giới đều vô nghĩa với Chúa. \q2 Trong mắt Ngài, mọi nước đều không là gì cả— \q2 chỉ là trống không và vô ích. \q1 \v 18 Các ngươi so sánh Đức Chúa Trời với ai? \q2 Các ngươi hình dung Ngài thế nào? \q1 \v 19 Có thể so sánh Ngài với tượng thần bằng đất, \q2 tượng bọc vàng, và trang trí cùng các dây bạc chăng? \q1 \v 20 Hay nếu người nghèo không có tiền thuê đúc tượng, \q2 họ có thể chọn thứ gỗ tốt lâu mục \q2 và giao cho thợ đẽo gọt thành một pho tượng \q2 không lay đổ được! \b \q1 \v 21 Các ngươi không nghe? Các ngươi không hiểu sao? \q2 Các ngươi bị điếc với lời Đức Chúa Trời— \q2 là lời Ngài đã ban trước khi thế giới bắt đầu sao? \q1 Có phải các ngươi thật không biết? \q1 \v 22 Đức Chúa Trời ngự trên vòm trời. \q2 Ngài coi dân cư trên đất như cào cào! \q1 Đấng trải không gian như bức màn, \q2 và giương các tầng trời như cái trại. \q1 \v 23 Ngài làm cho quan quyền trở thành vô hiệu \q2 và quan án trở thành vô nghĩa. \q1 \v 24 Chúng giống như cây mới mọc, chưa đâm rễ, \q2 khi Chúa thổi trên chúng, chúng liền héo khô. \b \q1 \v 25 Đấng Thánh hỏi: “Vậy, các con ví sánh Ta với ai? \q2 Các con đặt Ta ngang hàng với ai?” \b \q1 \v 26 Hãy ngước mắt nhìn các tầng trời. \q2 Ai đã sáng tạo các tinh tú? \q1 Chúa là Đấng gọi các thiên thể theo đội ngũ \q2 và đặt tên cho mỗi thiên thể. \q1 Vì Chúa có sức mạnh vĩ đại và quyền năng vô biên, \q2 nên không sót một thiên thể nào. \q1 \v 27 Hỡi Gia-cốp, sao ngươi nói Chúa Hằng Hữu không lưu tâm đến hoạn nạn ngươi? \q2 Hỡi Ít-ra-ên, sao ngươi than thở Đức Chúa Trời từ bỏ đường lối ngươi? \q1 \v 28 Có phải các ngươi chưa bao giờ nghe? \q2 Có phải các ngươi chưa bao giờ hiểu? \q1 Chúa Hằng Hữu là Đức Chúa Trời đời đời, \q2 là Đấng sáng tạo trời đất. \q1 Ngài không bao giờ mệt mỏi hay yếu sức. \q2 Không ai dò tìm được sự hiểu biết của Ngài bao sâu. \q1 \v 29 Ngài ban năng lực cho người bất lực, \q2 thêm sức mạnh cho người yếu đuối. \q1 \v 30 Dù thiếu niên sẽ trở nên yếu đuối và mệt nhọc, \q2 và thanh niên cũng sẽ kiệt sức té. \q1 \v 31 Nhưng tin cậy Chúa Hằng Hữu thì sẽ được sức mới. \q2 Họ sẽ tung cánh bay cao như chim ưng. \q2 Họ sẽ chạy mà không biết mệt. \q2 Sẽ bước đi mà không mòn mỏi. \c 41 \s1 Đức Chúa Trời Giúp Đỡ Ít-ra-ên \q1 \v 1 “Hỡi các hải đảo! Hãy im lặng lắng nghe trước mặt Ta. \q2 Hãy mang sự tranh luận mạnh mẽ nhất. \q2 Hãy đến gần Ta mà phát biểu. \q2 Tòa án đã sẵn sàng để phân xử các ngươi.” \b \q1 \v 2 “Ai đã đánh thức vua từ phương đông, \q2 và gọi người đến để phục vụ Đức Chúa Trời? \q1 Ai trao cho người các dân tộc để chinh phục \q2 và cho người giẫm đạp các vua dưới chân mình? \q1 Với lưỡi gươm, người sẽ biến chúng thành bụi đất. \q2 Với cung tên, người phân tán chúng như rơm rác trước gió. \q1 \v 3 Người đánh đuổi chúng và bước đi cách an toàn, \q2 dù rằng người đang đi trên vùng đất lạ. \q1 \v 4 Ai đã làm những việc vĩ đại đó, \q2 ai gọi mỗi thế hệ mới đến từ ban đầu? \q1 Đó là Ta, Chúa Hằng Hữu, Đấng Đầu Tiên và Cuối Cùng. \q2 Chính Ta là Đấng ấy.” \b \q1 \v 5 Các hải đảo đã thấy và khiếp sợ. \q2 Các nước xa xôi run rẩy và họp lại để chiến đấu. \q1 \v 6 Mỗi người giúp người khác can đảm, \q2 và nói với nhau rằng: “Hãy mạnh mẽ!” \q1 \v 7 Thợ chạm khuyến khích thợ vàng, \q2 và thợ gò giúp đỡ thợ rèn. \q1 Họ nói: “Tốt, mọi việc sẽ êm đẹp.” \q2 Họ cẩn thận nối các phần lại với nhau, \q2 rồi dùng đinh đóng chặt để nó khỏi ngã. \b \q1 \v 8 “Nhưng vì con, Ít-ra-ên đầy tớ Ta, \q2 Gia-cốp được Ta lựa chọn, \q2 là dòng dõi của Áp-ra-ham, bạn Ta. \q1 \v 9 Ta đã gọi các con trở lại từ tận cùng mặt đất. \q2 Ta phán: ‘Con là đầy tớ Ta.’ \q2 Vì Ta đã chọn con và sẽ không bao giờ loại bỏ con. \q1 \v 10 Đừng sợ, vì Ta ở với con. \q2 Chớ kinh khiếp, vì Ta là Đức Chúa Trời con. \q2 Ta sẽ thêm sức cho con và giúp đỡ con. \q2 Ta sẽ dùng tay phải công chính nâng đỡ con. \q1 \v 11 Kìa, mọi kẻ thách thức con sẽ hổ thẹn, \q2 bối rối, và bị tiêu diệt. \q1 Những ai chống nghịch con sẽ chết và diệt vong. \q1 \v 12 Con sẽ tìm chúng là kẻ xâm chiếm con nhưng không thấy. \q2 Những kẻ tấn công con sẽ không còn nữa. \q1 \v 13 Vì Ta nắm giữ con trong tay phải Ta— \q2 Ta, là Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của con. \q2 Ta sẽ phán cùng con rằng: \q2 ‘Đừng sợ hãi. Ta ở đây để giúp đỡ con. \q1 \v 14 Hỡi Gia-cốp, dù con bị xem là sâu bọ, \q2 đừng sợ hãi, hỡi dân Ít-ra-ên,\f + \fr 41:14 \fr*\ft Ctd dân Ta \ft*\f* Ta sẽ cứu giúp con. \q1 Ta là Chúa Hằng Hữu, Đấng Cứu Chuộc con. \q2 Ta là Đấng Thánh của Ít-ra-ên.’ \q1 \v 15 Ta làm cho con thành cái bừa mới với răng sắc bén. \q2 Con sẽ xé kẻ thù con ra từng mảnh, \q2 và chất chúng thành một núi rơm rác. \q1 \v 16 Con sẽ tung rải chúng trước gió \q2 và gió lốc sẽ đùa chúng đi tan tác. \q1 Lòng con sẽ vui mừng trong Chúa Hằng Hữu. \q2 Con sẽ được vinh quang trong Đấng Thánh của Ít-ra-ên.” \q1 \v 17 “Khi người nghèo khổ và túng thiếu tìm nước uống không được, \q2 lưỡi họ sẽ bị khô vì khát, \q2 rồi Ta, Chúa Hằng Hữu, sẽ đáp lời họ. \q1 Ta, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên sẽ không bao giờ từ bỏ họ. \q1 \v 18 Ta sẽ mở cho họ các dòng sông trên vùng cao nguyên \q2 Ta sẽ cho họ các giếng nước trong thung lũng. \q2 Ta sẽ làm đầy sa mạc bằng những ao hồ. \q2 Đất khô hạn thành nguồn nước. \q1 \v 19 Ta sẽ trồng cây trong sa mạc cằn cỗi— \q2 các bá hương, keo, sim, ô-liu, bách, linh sam, và thông. \q1 \v 20 Ta làm điều này để tất cả ai thấy phép lạ này \q2 sẽ hiểu được rằng— \q1 Chúa Hằng Hữu, Đấng đã làm những việc ấy, \q2 là Đấng Thánh của Ít-ra-ên, Đấng đã tạo dựng chúng.” \q1 \v 21 Chúa Hằng Hữu phán: \q2 “Hãy giải trình cho thần tượng các ngươi.” \q2 Vua của Ít-ra-ên phán: \q2 “Hãy để cho chúng chứng tỏ chúng làm được gì. \q1 \v 22 Hãy để cho chúng thuật lại các biến cố trong quá khứ \q2 để chúng ta suy xét các chứng cớ. \q1 Hãy để chúng trình bày việc tương lai \q2 vậy chúng ta biết những gì sẽ xảy đến. \q1 \v 23 Phải, hãy nói với chúng ta việc sẽ xảy ra trong những ngày tới. \q2 Để chúng ta biết các ngươi là thần thánh. \q2 Phải, hãy làm bất cứ điều gì—tốt hay xấu! \q2 Điều gì làm chúng ta kinh ngạc và hoảng sợ. \q1 \v 24 Nhưng các ngươi đều vô dụng và công việc các ngươi đều vô ích. \q2 Ai chọn các ngươi mà thờ cũng đáng ghê tởm như các ngươi. \q1 \v 25 Ta đã dấy lên một lãnh đạo đến từ phương bắc. \q2 Từ phương đông, Người sẽ kêu cầu Danh Ta. \q2 Ta sẽ cho Người nắm quyền trên các vua và hoàng tử. \q2 Người sẽ giẫm đạp chúng như thợ gốm giẫm lên đất sét. \q1 \v 26 Ai đã nói những việc ấy từ ban đầu cho chúng ta biết? \q2 Ai đã báo trước việc này để chúng ta nhìn nhận rằng: Người ấy đúng? \q2 Không ai nói một lời nào! \q1 \v 27 Chính Ta đã phán trước cùng Si-ôn rằng: \q2 ‘Hãy nhìn xem! Người giúp đỡ đang trên đường đến!’ \q2 Ta sẽ sai một sứ giả đem tin mừng đến Giê-ru-sa-lem. \q1 \v 28 Không một ai trong các thần của ngươi nói điều này. \q2 Không ai trong chúng nó có thể trả lời khi Ta hỏi. \q1 \v 29 Kìa, tất cả chúng đều ngu dại, \q2 công việc chúng vô giá trị, \q2 Tất cả tượng thờ của các ngươi đều trống không như gió.” \c 42 \s1 Đầy Tớ Được Chọn của Chúa Hằng Hữu \q1 \v 1 “Đây là Đầy Tớ Ta, Người Ta phù hộ. \q2 Đây là Người Ta chọn, đã làm Ta hài lòng. \q2 Ta đã đặt Thần Ta trong Người. \q2 Người sẽ rao giảng công lý cho các dân tộc. \q1 \v 2 Người không kêu la \q2 hay to tiếng ngoài đường phố. \q1 \v 3 Người sẽ chẳng bẻ cây sậy gần gãy \q2 hay dập tắt ngọn đèn sắp tàn. \q1 Người sẽ công tâm thi hành chân lý. \q1 \v 4 Người sẽ không mệt mỏi hay ngã lòng \q2 cho đến khi công lý thiết lập trên khắp đất. \q1 Dù các dân tộc ở hải đảo xa xăm cũng sẽ trông đợi luật pháp Người.” \b \q1 \v 5 Đức Chúa Trời, Chúa Hằng Hữu là Đấng sáng tạo và trải các tầng trời ra, \q2 Ngài tạo dựng trái đất và mọi thứ trong đó. \q1 Ngài ban hơi thở cho vạn vật, \q2 truyền sinh khí cho dân cư đi trên đất. \q1 Và Ngài phán: \q1 \v 6 “Ta, Chúa Hằng Hữu, đã gọi con vào sự công chính. \q2 Ta sẽ nắm tay con và bảo vệ con, \q1 và Ta sẽ ban con cho Ít-ra-ên, dân Ta, \q2 như giao ước giữa Ta với chúng.\f + \fr 42:6 \fr*\ft Ctd Con sẽ là một giao ước giữa Ta và toàn dân\ft*\f* \q1 Con sẽ là Nguồn Sáng dìu dắt các dân tộc. \q1 \v 7 Con sẽ mở mắt những người mù. \q2 Con sẽ giải cứu người bị giam trong tù, \q2 giải thoát người ngồi nơi ngục tối. \b \q1 \v 8 Ta là Chúa Hằng Hữu; đó là Danh Ta! \q2 Ta sẽ không nhường vinh quang Ta cho bất cứ ai, \q2 hoặc chia sẻ sự ca ngợi Ta với các tượng chạm. \q1 \v 9 Tất cả lời tiên tri của Ta ngày trước đã xảy ra, \q2 và nay Ta sẽ báo trước một lần nữa. \q1 Ta sẽ cho con biết tương lai trước khi nó xảy ra.” \s1 Bài Ngợi Ca Chúa Hằng Hữu \q1 \v 10 Hãy hát một bài ca mới cho Chúa Hằng Hữu! \q2 Các dân tộc ở tận cùng mặt đất, hãy ca ngợi Ngài! \q1 Hãy hát mừng, tất cả ai đi biển, \q2 tất cả cư dân sống nơi miền duyên hải xa xôi. \q1 \v 11 Hãy cùng hòa nhịp, hỡi các thành hoang mạc; \q2 hãy cất tiếng hỡi các làng mạc Kê-đa! \q1 Hỡi cư dân Sê-la hãy hát ca vui mừng; \q2 hãy reo mừng hỡi các dân cư miền núi! \q1 \v 12 Hỡi cả trái đất hãy dâng vinh quang lên Chúa Hằng Hữu; \q2 hãy công bố sự ngợi tôn Ngài. \q1 \v 13 Chúa Hằng Hữu sẽ ra đi như dũng tướng hùng mạnh, \q2 Ngài sẽ phẫn nộ xung phong ra chiến trường. \q2 Ngài sẽ quát tháo và khiến quân thù tan vỡ. \q1 \v 14 Chúa phán: “Ta đã im lặng từ lâu; \q2 phải, Ta đã tự kiềm chế mình. \q1 Nhưng giờ đây, như đàn bà trong cơn chuyển dạ, \q2 Ta sẽ kêu khóc và than vãn vì đau đớn. \q1 \v 15 Ta sẽ san bằng những ngọn núi và đồi \q2 và làm tàn rụi tất cả cây cỏ của chúng. \q1 Ta sẽ làm sông ngòi trở nên đất khô \q2 và ao hồ trở thành khô cạn. \q1 \v 16 Ta sẽ dẫn người Ít-ra-ên mù lòa đi trên đường mới, \q2 dẫn dắt họ đi trên đường mà chúng chưa biết. \q1 Ta sẽ biến bóng tối trước mặt họ ra ánh sáng \q2 và nơi gồ ghề ra đường bằng phẳng trước mặt họ. \q1 Thật vậy, Ta sẽ làm những việc này; \q2 Ta sẽ không bỏ rơi chúng. \q1 \v 17 Còn những người tin cậy vào hình tượng, \q2 những người nói rằng: ‘Các vị là thần của chúng tôi,’ \q2 sẽ cúi đầu hổ nhục.” \s1 Tội Lỗi và Hình Phạt \q1 \v 18 “Hãy lắng nghe, hỡi những người điếc! \q2 Hãy nhìn và xem xét, hỡi người mù! \q1 \v 19 Ai mù như dân Ta, đầy tớ Ta? \q2 Ai điếc như sứ giả Ta? \q1 Ai mù như dân Ta lựa chọn, \q2 đầy tớ của Chúa Hằng Hữu? \q1 \v 20 Ngươi thấy và nhận ra điều đúng \q2 nhưng không chịu làm theo. \q1 Ngươi nghe bằng đôi tai của mình \q2 nhưng ngươi không thật sự lắng nghe.” \q1 \v 21 Vì Chúa là Đấng Công Chính, \q2 Chúa Hằng Hữu tôn cao luật pháp vinh quang của Ngài. \q1 \v 22 Nhưng dân của Ngài đã bị cướp đoạt và bóc lột, \q2 bị làm nô lệ, bị bỏ tù, và bị mắc bẫy. \q1 Họ biến thành món mồi cho mọi người \q2 và không ai bảo vệ họ, \q2 không ai đem họ trở về nhà. \b \q1 \v 23 Ai sẽ nghe những bài học này trong quá khứ \q2 và nghĩ đến sự đổ nát đang chờ đợi trong tương lai? \q1 \v 24 Ai cho phép Ít-ra-ên bị cướp đoạt và đau đớn? \q2 Đó là Chúa Hằng Hữu, vì chúng đã phạm tội nghịch với Ngài, \q1 vì dân Chúa không đi trong đường lối Ngài, \q2 cũng không tuân hành luật pháp Ngài. \q1 \v 25 Vì thế, Chúa đổ cơn đoán phạt\f + \fr 42:25 \fr*\ft Ctd sức nóng của cơn giận\ft*\f* trên họ \q2 và hủy diệt họ trong cuộc chiến. \q1 Họ như lửa cháy bọc quanh \q2 thế mà họ vẫn không hiểu. \q1 Họ bị cháy phỏng \q2 mà vẫn không học được kinh nghiệm. \c 43 \s1 Chúa Sẽ Cứu Chuộc Dân Ngài \q1 \v 1 Nhưng bây giờ, hỡi Gia-cốp, hãy lắng nghe Chúa Hằng Hữu, Đấng tạo dựng con. \q2 Hỡi Ít-ra-ên, Đấng đã tạo thành con phán: \q2 “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc con. \q2 Ta gọi đích danh con; con thuộc về Ta. \q1 \v 2 Khi con vượt qua dòng nước sâu, \q2 Ta sẽ ở cùng con. \q1 Khi con lội qua những khúc sông nguy hiểm, \q2 con sẽ chẳng bị chìm đắm. \q1 Khi con bước qua đám lửa cháy dữ dội, \q2 con sẽ không bị phỏng; \q2 ngọn lửa sẽ không thiêu đốt được con. \q1 \v 3 Vì Ta là Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của con, \q2 là Đấng Thánh của Ít-ra-ên, và Đấng Cứu Rỗi của con. \q1 Ta ban Ai Cập làm giá chuộc con; \q2 dùng Ê-thi-ô-pi và Sê-ba thế chỗ con. \q1 \v 4 Ta dùng nhiều người đổi lấy con; \q2 và nhiều dân tộc thế sinh mạng con \q2 vì con quý giá đối với Ta. \q1 Con được tôn trọng, vì Ta yêu mến con. \b \q1 \v 5 Đừng sợ, vì Ta ở với con. \q2 Ta sẽ tập hợp con và dòng dõi con từ phương đông và phương tây. \q1 \v 6 Ta sẽ bảo phương bắc và phương nam rằng: \q2 ‘Hãy đưa con trai và con gái Ta trở về Ít-ra-ên \q2 từ những vùng xa xôi tận cùng mặt đất. \q1 \v 7 Hãy đưa tất cả ai công bố Ta là Đức Chúa Trời của họ trở về Ít-ra-ên, \q2 vì Ta đã tạo họ để tôn vinh Ta. \q1 Đó là Ta, Đấng tạo thành họ.’” \b \q1 \v 8 Hãy đem dân này ra, là dân có mắt nhưng mù, \q2 dân có tai mà điếc. \q1 \v 9 Hãy triệu tập các nước lại với nhau! \q2 Quy tụ các dân tộc trên thế giới! \q2 Có thần tượng nào của chúng từng báo trước những lời này? \q2 Thần nào có thể đoán được chuyện sẽ xảy ra ngày mai? \q2 Các nhân chứng cho các lời báo trước ở đâu? \q2 Ai có thể xác nhận điều chúng nói là sự thật? \b \q1 \v 10 Chúa Hằng Hữu phán: “Nhưng con là nhân chứng của Ta, hỡi Ít-ra-ên, \q2 con là đầy tớ của Ta. \q1 Con được chọn để biết Ta, tin Ta, \q2 và hiểu rằng chỉ có Ta là Đức Chúa Trời. \q1 Không có Đức Chúa Trời nào khác— \q2 chưa bao giờ có, và sẽ không bao giờ có. \q1 \v 11 Ta, chính Ta, là Chúa Hằng Hữu, \q2 không có Đấng Cứu Rỗi nào khác. \q1 \v 12 Đầu tiên Ta báo trước việc giải thoát con, \q2 sau đó Ta cứu con và công bố ra thế giới. \q1 Chẳng có thần nào từng làm việc này. \q2 Con là nhân chứng rằng Ta là Đức Chúa Trời duy nhất.” \q2 Chúa Hằng Hữu đã phán. \q1 \v 13 “Thật vậy, từ nghìn xưa, Ta đã là Đức Chúa Trời. \q2 Không ai có thể giật lấy người nào khỏi tay Ta. \q2 Không ai có thể sửa lại việc Ta đã tiến hành?” \s1 Lời Hứa Khải Hoàn của Chúa Hằng Hữu \p \v 14 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán—Đấng Cứu Chuộc của con, Đấng Thánh của Ít-ra-ên: \q1 “Vì các con, Ta đã sai một đội quân đến Ba-by-lôn, \q2 bắt người Canh-đê chạy trốn trong những tàu chúng từng hãnh diện. \q1 \v 15 Ta là Chúa Hằng Hữu, Đấng Thánh của các con, \q2 Đấng Tạo Dựng và là Vua của Ít-ra-ên. \q1 \v 16 Ta là Chúa Hằng Hữu, Đấng mở đường giữa đại dương \q2 và làm ra một lối đi khô ráo xuyên qua biển. \q1 \v 17 Ta đã gọi đến đội quân Ai Cập \q2 với tất cả chiến xa và ngựa của nó. \q1 Ta đã chôn vùi chúng dưới lòng biển cả, và chúng chết ngộp, \q2 mạng sống chúng tiêu tan như tim đèn bị dập tắt. \b \q1 \v 18 Đừng nhớ lại quá khứ đen tối! \q2 Đừng nhắc mãi những chuyện thuở trước. \q1 \v 19 Này, Ta sẽ làm một việc mới. \q2 Kìa, Ta đã bắt đầu! Các con có thấy không? \q2 Ta sẽ mở thông lộ giữa đồng hoang, \q2 Ta sẽ khơi sông ngòi để tưới nhuần đất khô. \q1 \v 20 Các dã thú trong đồng sẽ cảm tạ Ta, \q2 loài chó rừng và loài cú sẽ tôn ngợi Ta, \q2 vì Ta cho chúng nước trong hoang mạc. \q1 Phải, Ta sẽ khơi sông ngòi tưới nhuần đất khô \q2 để dân Ta đã chọn được tươi mới. \q1 \v 21 Ta đã tạo nên Ít-ra-ên cho Ta, \q2 và một ngày kia, họ sẽ ngợi tôn Ta trước cả thế giới.” \q1 \v 22 “Nhưng, hỡi nhà Gia-cốp, con không kêu cầu Ta. \q2 Con đã chán Ta, hỡi Ít-ra-ên! \q1 \v 23 Các con không dâng lên Ta chiên và dê làm tế lễ thiêu. \q2 Các con không tôn vinh Ta bằng các sinh tế, \q1 Ta đâu có buộc hay mong mỏi các con \q2 dâng của lễ chay và dâng nhũ hương! \q1 \v 24 Các con không mang mùi hương cây xương bồ cho Ta, \q2 hay làm hài lòng Ta với những sinh tế béo ngậy. \q1 Trái lại, tội lỗi các con làm Ta đau lòng\f + \fr 43:24 \fr*\ft Ctd làm cho lòng Ta nặng trĩu\ft*\f* \q2 và gian ác các ngươi làm Ta lo lắng. \b \q1 \v 25 Ta—phải, chỉ một mình Ta—sẽ xóa tội lỗi của các con vì chính Ta \q2 và sẽ không bao giờ nhớ đến tội lỗi của các con nữa. \q1 \v 26 Hãy cùng nhau ôn lại những việc đã qua, \q2 các con có thể đưa ra lý lẽ chứng tỏ các con vô tội. \q1 \v 27 Từ lúc khởi đầu, tổ phụ các con đều đã phạm tội chống nghịch Ta; \q2 những người lãnh đạo của các con đã bẻ gãy luật pháp Ta. \q1 \v 28 Đó là tại sao Ta sẽ làm nhục các thầy tế lễ của con; \q2 Ta đã ban lệnh tiêu hủy nhà Gia-cốp \q2 và bỏ mặc Ít-ra-ên bị phỉ báng.” \c 44 \q1 \v 1 “Nhưng bây giờ, hãy nghe Ta, hỡi Gia-cốp, đầy tớ Ta, \q2 hỡi Ít-ra-ên, dân Ta lựa chọn. \q1 \v 2 Chúa Hằng Hữu, Đấng tạo nên con và giúp đỡ con, phán: \q2 Đừng sợ hãi, hỡi Gia-cốp, đầy tớ Ta, \q2 hỡi Giê-ru-sun (một tên khác của Ít-ra-ên), dân Ta lựa chọn. \q1 \v 3 Vì Ta sẽ cho con uống nước ngọt đã khát \q2 và cho suối mát tưới đồng khô. \q1 Ta sẽ đổ Thần Ta trên dòng dõi của con, \q2 và phước lành Ta trên con cháu của con. \q1 \v 4 Chúng sẽ hưng thịnh như cỏ xanh, \q2 như cây liễu trồng bên dòng sông. \q1 \v 5 Vài người sẽ hãnh diện nói: ‘Tôi thuộc về Chúa Hằng Hữu.’ \q2 Những người khác sẽ nói: ‘Tôi là con cháu của Gia-cốp.’ \q2 Vài người khác lại viết Danh Chúa Hằng Hữu trên tay mình \q2 và xưng mình bằng danh Ít-ra-ên.” \s1 Người Thờ Thần Tượng Bị Đoán Phạt \p \v 6 Đây là điều Chúa Hằng Hữu—Vua Ít-ra-ên và Đấng Cứu Chuộc, là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán: \q1 “Ta là Đầu Tiên và Cuối Cùng; \q2 ngoài Ta, không có Đức Chúa Trời nào khác. \q1 \v 7 Có ai giống như Ta? \q2 Hãy để người ấy công bố và trình bày trước mặt Ta. \q1 Hãy để người ấy làm như điều Ta đã làm từ thời xa xưa \q2 khi Ta lập dân tộc này và giải thích những chuyện tương lai. \q1 \v 8 Đừng khiếp đảm; đừng sợ hãi. \q2 Chẳng phải Ta đã loan báo từ xưa những diễn tiến này sao? \q2 Con là nhân chứng của Ta—có Đức Chúa Trời nào ngoài Ta không? \q2 Không! Chẳng có Tảng Đá nào khác—không một ai!” \b \q1 \v 9 Thợ làm hình tượng chẳng là gì cả. \q2 Các tác phẩm của họ đều là vô dụng. \q1 Những người thờ hình tượng không biết điều này, \q2 cho nên họ phải mang sự hổ thẹn. \q1 \v 10 Ai là người khờ dại tạo thần cho mình— \q2 một hình tượng chẳng giúp gì cho ai cả? \q1 \v 11 Tất cả những ai thờ thần tượng cũng sẽ bị xấu hổ \q2 giống như các thợ tạc tượng—cũng chỉ là con người— \q2 và cả những người nhờ họ tạc tượng. \q1 Hãy để họ cùng nhau đứng lên, \q2 nhưng họ sẽ đứng trong kinh hãi và hổ thẹn. \b \q1 \v 12 Thợ rèn lấy một thỏi sắt nướng trên lửa, \q2 dùng búa đập và tạo hình dạng với cả sức lực mình. \q1 Việc này khiến người thợ rèn đói và mệt mỏi. \q2 Khát nước đến ngất xỉu. \q1 \v 13 Thợ mộc căng dây đo gỗ \q2 và vẽ một kiểu mẫu trên đó. \q1 Người thợ dùng cái đục và cái bào \q2 rồi khắc đẽo theo hình dạng con người. \q1 Anh làm ra tượng người rất đẹp \q2 và đặt trên một bàn thờ nhỏ. \q1 \v 14 Anh vào rừng đốn gỗ bá hương; \q2 anh chọn gỗ bách và gỗ sồi; \q1 anh trồng cây thông trong rừng \q2 để mưa xuống làm cho cây lớn lên. \q1 \v 15 Rồi anh dùng một phần gỗ nhóm lửa. \q2 Để sưởi ấm mình và nướng bánh. \q1 Và dùng phần gỗ còn lại \q2 đẽo gọt thành một tượng thần để thờ! \q1 Anh tạc một hình tượng \q2 và quỳ lạy trước nó! \q1 \v 16 Anh đốt một phần của thân cây để nướng thịt \q2 và để giữ ấm thân mình. \q1 Anh còn nói: “À, lửa ấm thật tốt.” \q1 \v 17 Anh lấy phần cây còn lại \q2 và làm tượng thần cho mình! \q1 Anh cúi mình lạy nó, \q2 thờ phượng và cầu nguyện với nó. \q1 Anh nói: “Xin giải cứu tôi! \q2 Ngài là thần tôi!” \b \q1 \v 18 Như người ngu dại và không có trí hiểu biết! \q2 Mắt họ bị che kín, nên không thể thấy. \q2 Trí họ bị đóng chặt, nên không suy nghĩ. \q1 \v 19 Người nào đã làm tượng để thờ thì không bao giờ nghĩ rằng: \q2 “Tại sao, nó chỉ là một khúc gỗ thôi mà! \q1 Ta đã dùng một phần gỗ để nhóm lửa sưởi ấm \q2 và dùng để nướng bánh và thịt cho ta. \q1 Làm sao phần gỗ dư có thể là thần được? \q2 Lẽ nào ta quỳ lạy một khúc gỗ sao?” \q1 \v 20 Thật tội nghiệp, kẻ dại dột bị lừa dối ăn tro. \q2 Lại tin vào vật không thể giúp được mình \q2 Sao không tự hỏi: “Có phải thần tượng ta cầm trong tay là giả dối không?” \s1 Phục Hồi Giê-ru-sa-lem \q1 \v 21 “Hãy chú ý, hỡi Gia-cốp, \q2 vì con là đầy tớ Ta, hỡi Ít-ra-ên. \q1 Ta, Chúa Hằng Hữu đã tạo nên con, \q2 và Ta sẽ không bao giờ quên con. \q1 \v 22 Ta đã quét sạch tội ác con như đám mây. \q2 Ta đã làm tan biến tội lỗi con như sương mai. \q1 Hãy trở về với Ta, \q2 vì Ta đã trả giá để chuộc con.” \q1 \v 23 Các tầng trời, hãy ca hát vì Chúa đã làm việc ấy. \q2 Đất hãy la lớn tiếng lên! \q2 Các núi hãy trổi giọng hòa ca với rừng cây nội cỏ! \q1 Vì Chúa Hằng Hữu đã cứu chuộc Gia-cốp \q2 và được tôn vinh trong Ít-ra-ên. \b \q1 \v 24 Đây là điều Chúa Hằng Hữu— \q2 Đấng Cứu Chuộc và Đấng Tạo Dựng của ngươi phán: \q2 “Ta là Chúa Hằng Hữu, Đấng tạo dựng vạn vật. \q2 Chỉ một mình Ta giương các tầng trời. \q2 Có ai ở với Ta khi Ta tạo dựng trái đất không? \q1 \v 25 Ta làm hỏng các điềm dối của tiên tri giả \q2 và làm cho thầy bói phải hổ thẹn. \q1 Ta khiến người khôn phải thất bại,\f + \fr 44:25 \fr*\ft Ctd thối lui\ft*\f* \q2 và tri thức chúng trở thành dại khờ. \q1 \v 26 Ta xác nhận tuyên ngôn của đầy tớ Ta \q2 và thực hiện lời của sứ giả Ta. \q1 Ta phán với Giê-ru-sa-lem: ‘Cư dân sẽ được sống tại đây’ \q2 và với các thành Giu-đa: \q1 ‘Ta sẽ khôi phục chúng; Ta sẽ làm mới lại sự điêu tàn của ngươi!’ \q1 \v 27 Khi Ta phán với các sông rằng: ‘Hãy khô cạn!’ \q2 Chúng sẽ khô cạn. \q1 \v 28 Khi Ta nói với Si-ru: ‘Ngươi là người chăn của Ta.’ \q2 Người sẽ thực hiện điều Ta nói. \q2 Chúa sẽ ra lệnh: ‘Hãy tái thiết Giê-ru-sa-lem’; \q2 Chúa sẽ phán: ‘Hãy phục hồi Đền Thờ.’” \c 45 \s1 Si-ru, Người Được Chúa Hằng Hữu Chọn \q1 \v 1 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán về Si-ru, người được Ngài xức dầu, \q2 Chúa sẽ trao quyền vào tay phải người. \q2 Trước mặt người, các vua hùng mạnh sẽ tê liệt vì sợ. \q1 Các cổng thành của họ sẽ mở, \q2 không bao giờ đóng lại.\f + \fr 45:1 \fr*\ft Ctd mở các cửa trước mặt người để các cổng thành không bị đóng lại\ft*\f* \q1 \v 2 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q2 “Ta sẽ đi trước con, Si-ru, \q2 và san bằng các núi. \q1 Ta sẽ phá vỡ các cửa đồng \q2 và bẻ gãy then sắt. \q1 \v 3 Ta sẽ cho con các kho tàng châu báu giấu trong hang sâu bí mật. \q2 Ta sẽ làm điều này để con biết Ta là Chúa Hằng Hữu, \q2 Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên, Đấng đã gọi đích danh con.” \b \q1 \v 4 “Tại sao Ta gọi để làm việc này? \q2 Tại sao Ta gọi đích danh con khi con không biết Ta? \q1 Mục đích là vì Gia-cốp, đầy tớ Ta, \q2 và Ít-ra-ên, tuyển dân Ta, \q1 \v 5 Ta là Chúa Hằng Hữu; \q2 ngoài Ta không có Đức Chúa Trời nào khác. \q1 Ta thêm sức cho con \q2 dù con không biết Ta, \q1 \v 6 để khắp đất từ đông sang tây, \q2 sẽ biết rằng không có Đức Chúa Trời nào khác. \q1 Ta là Chúa Hằng Hữu, không có Đấng nào khác. \q1 \v 7 Ta tạo ánh sáng và bóng tối. \q2 Ta ban hòa bình và tai ương. \q2 Ta, Chúa Hằng Hữu, đã làm các việc ấy.” \b \q1 \v 8 “Hãy mở ra, hỡi các tầng trời, \q2 và hãy đổ mưa công chính. \q1 Hỡi mặt đất, hãy mở ra \q2 để hạt giống cứu rỗi cây công chính mọc lên, \q1 Ta, Chúa Hằng Hữu, đã sáng tạo chúng.” \b \q1 \v 9 “Khốn cho những ai chống lại Đấng Sáng Tạo mình. \q2 Lẽ nào một bình đất chống lại người tạo ra nó? \q2 Có khi nào đất sét dám chất vấn thợ gốm rằng: \q2 ‘Hãy ngừng lại, ông đã nặn sai rồi!’ \q2 Hoặc một sản phẩm dám chê người tạo ra nó: \q2 ‘Ông vụng về thế sao?’ \q1 \v 10 Khốn cho người dám hỏi cha mình: \q2 ‘Tại sao phải sinh con ra?’ \q2 hoặc trách mẹ: \q1 ‘Mẹ mang nặng đẻ đau làm gì?’” \b \q1 \v 11 Đây là điều Chúa Hằng Hữu— \q2 Đấng Thánh của Ít-ra-ên và là Đấng Sáng Tạo của ngươi, phán: \q2 “Có phải ngươi hỏi Ta làm gì cho con cái Ta? \q2 Có phải ngươi truyền lệnh về công việc của tay Ta không? \q1 \v 12 Ta là Đấng đã làm nên trái đất \q2 và tạo dựng loài người trên đất. \q1 Ta đã đưa tay giăng các tầng trời. \q2 Và truyền lệnh cho tất cả tinh tú. \q1 \v 13 Ta đã dấy Si-ru lên để thực hiện sự công chính, \q2 Ta sẽ san bằng đường lối cho người. \q1 Người sẽ kiến thiết thành Ta, \q2 và phóng thích dân Ta đang bị lưu đày— \q2 mà không đòi phần thưởng! \q1 Ta, Chúa Hằng Hữu Vạn Quân đã phán dạy!” \s1 Dân Ngoại Sẽ Quay Về Phục Vụ Chúa \p \v 14 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Con sẽ cai trị người Ai Cập, \q2 người Ê-thi-ô-pi, và người Sa-bê. \q1 Họ sẽ mang đến con tất cả tài sản hàng hóa của họ, \q2 và tất cả sẽ thuộc về con. \q1 Họ sẽ theo con như những người tù bị xiềng. \q2 Họ sẽ quỳ trước con và nhìn nhận: \q2 ‘Thật Đức Chúa Trời ở cùng ông, Ngài là Đức Chúa Trời duy nhất. \q2 Không có Đấng nào khác.’” \b \q1 \v 15 Thật, thưa Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên, Đấng Cứu Rỗi của chúng ta, \q2 công việc Ngài thật bí ẩn. \q1 \v 16 Tất cả thợ chạm tượng đều bị ô nhục. \q2 Họ sẽ phải rút lui và hổ thẹn. \q1 \v 17 Nhưng Chúa Hằng Hữu sẽ cứu người Ít-ra-ên \q2 với sự cứu rỗi đời đời. \q1 Cho đến mãi mãi vô cùng, \q2 họ sẽ không bao giờ hổ thẹn và nhục nhã nữa. \b \q1 \v 18 Vì Chúa Hằng Hữu là Đức Chúa Trời \q2 là Đấng sáng tạo các tầng trời và đất \q2 và đặt mọi thứ trong đó. \q1 Ngài đã tạo lập địa cầu cho loài người cư trú, \q2 chứ không phải để bỏ hoang. \q1 Chúa phán: “Ta là Chúa Hằng Hữu, \q2 ngoài Ta không có Đấng nào khác. \q1 \v 19 Ta công khai tuyên bố lời hứa cách mạnh mẽ. \q2 Ta không thì thầm những lời bí hiểm tại góc tối tăm. \q1 Ta không bảo dòng dõi Gia-cốp hãy tìm kiếm Ta \q2 trong nơi không tìm được. \q1 Ta, Chúa Hằng Hữu, chỉ nói điều chân thật \q2 và công bố lời công chính.” \q1 \v 20 “Hãy tụ họp lại và đến, \q2 hỡi các dân lánh nạn từ các nước chung quanh. \q1 Thật dại dột, họ là những người khiêng tượng gỗ \q2 và cầu khẩn với thần không có quyền giải cứu! \q1 \v 21 Hãy cùng nhau bàn luận, hãy trình bày. \q2 Hãy tụ lại và công bố. \q2 Ai cho biết những điều này từ trước? \q2 Có thần nào nói trước việc sẽ xảy ra? \q2 Chẳng phải Ta, là Chúa Hằng Hữu sao? \q2 Vì không có Đức Chúa Trời nào khác ngoài Ta, \q2 Đức Chúa Trời công chính và Đấng Cứu Tinh. \q2 Không một ai ngoài Ta. \q1 \v 22 Hỡi các dân tộc khắp đất, hãy nhìn Ta thì các ngươi sẽ được cứu. \q2 Vì Ta là Đức Chúa Trời; không có Đấng nào khác. \q1 \v 23 Ta đã nhân danh Ta mà thề; \q2 Ta đã nói ra lời chân thật,\f + \fr 45:23 \fr*\ft Nt công chính\ft*\f* \q2 Ta chẳng bao giờ nuốt lời: \q1 Mọi đầu gối sẽ quỳ trước mặt Ta, \q2 và mọi lưỡi sẽ thề nguyện phục vụ Ta.” \q1 \v 24 Họ sẽ công bố: \q2 “Sự công chính và sức mạnh chúng ta ở trong Chúa Hằng Hữu.” \q2 Tất cả những người đã giận Ngài \q2 sẽ đến với Ngài và xấu hổ. \q1 \v 25 Trong Chúa Hằng Hữu, mọi thế hệ của Ít-ra-ên sẽ được xưng công chính, \q2 và trong Ngài, họ sẽ được vinh quang. \c 46 \s1 Các Thần Giả Dối của Ba-by-lôn \q1 \v 1 Bên và Nê-bô, là các thần của Ba-by-lôn, \q2 ngã xuống trên đất thấp. \q1 Chúng được chở trên những xe do trâu kéo. \q2 Những thần tượng thật nặng nề, \q2 là gánh nặng cho các thú đang kiệt sức. \q1 \v 2 Cả hai đều cúi đầu gò lưng. \q2 Các thần ấy không thể cứu người, \q2 và người cũng không thể bảo vệ chúng. \q1 Tất cả chúng cùng nhau bị lưu đày. \b \q1 \v 3 “Hãy lắng nghe, hỡi con cháu Gia-cốp, \q2 là những người còn sống sót trong Ít-ra-ên. \q1 Ta đã chăm sóc từ ngày các con mới sinh. \q2 Phải, Ta đã cưu mang trước khi các con sinh ra. \q1 \v 4 Ta sẽ là Đức Chúa Trời trọn đời các con— \q2 cho đến khi tuổi già tóc bạc. \q1 Ta đã sinh thành các con, và Ta cũng sẽ gìn giữ các con. \q2 Ta sẽ bồng ẵm và giải cứu các con. \q1 \v 5 Các con so sánh Ta với ai? \q2 Các con thấy có ai ngang bằng với Ta? \q1 \v 6 Có những người đổ hết bạc và vàng \q2 để thuê thợ kim hoàn đúc tượng làm thần. \q1 Rồi chúng quỳ mọp xuống và thờ lạy tượng. \q1 \v 7 Chúng rước tượng trên vai khiêng đi, \q2 và khi chúng đặt đâu tượng ngồi đó. \q1 Vì các tượng ấy không thể cử động. \q2 Khi có người cầu khẩn, tượng không đáp lời. \q2 Tượng không thể cứu bất cứ ai trong lúc gian nguy. \b \q1 \v 8 Đừng quên điều này! Hãy giữ nó trong trí! \q2 Hãy ghi nhớ, hỡi những người phạm tội. \q1 \v 9 Hãy nhớ lại những điều Ta đã làm trong quá khứ. \q2 Vì Ta là Đức Chúa Trời! \q2 Ta là Đức Chúa Trời, và không ai giống như Ta. \q1 \v 10 Ta đã cho các con biết việc cuối cùng, \q2 Ta đã nói trước việc chưa xảy ra từ ban đầu. \q1 Những việc Ta hoạch định sẽ thành tựu \q2 vì Ta sẽ làm bất cứ việc gì Ta muốn. \q1 \v 11 Ta sẽ gọi chim săn mồi từ phương đông— \q2 một người từ vùng đất xa xôi đến và thực hiện ý định của Ta. \q1 Những gì Ta nói, Ta sẽ thực hiện, \q2 điều Ta hoạch định, Ta sẽ hoàn thành. \b \q1 \v 12 Hãy nghe Ta, hỡi những dân cứng lòng, \q2 những dân cách xa sự công chính. \q1 \v 13 Vì Ta sẽ đưa sự công chính đến gần, \q2 không xa đâu, và sự cứu rỗi Ta sẽ không chậm trễ! \q1 Ta sẽ ban sự cứu chuộc cho Si-ôn \q2 và vinh quang Ta cho Ít-ra-ên.” \c 47 \s1 Ba-by-lôn Sẽ Bị Đoán Phạt \q1 \v 1 “Hãy xuống đây, hỡi trinh nữ Ba-by-lôn, và ngồi trong tro bụi. \q2 Vì những ngày ngươi ngồi trên ngai chẳng còn nữa! \q1 Hỡi con gái Ba-by-lôn, sẽ không bao giờ các ngươi \q2 được gọi là công chúa đáng yêu, dịu dàng, và thanh lịch nữa! \q1 \v 2 Hãy lấy cối hạng nặng và xay bột. \q2 Hãy gỡ khăn che mặt và cởi bỏ áo choàng. \q2 Hãy phơi bày chính mình cho mọi người nhìn thấy. \q1 \v 3 Các ngươi sẽ trần truồng và nhục nhã. \q2 Ta sẽ báo trả các ngươi, không trừ một ai.” \b \q1 \v 4 Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Danh Ngài là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, \q2 là Đấng Thánh của Ít-ra-ên. \b \q1 \v 5 “Hỡi Ba-by-lôn xinh đẹp, hãy ngồi nơi tối tăm và im lặng. \q2 Không ai còn gọi ngươi là nữ hoàng của các vương quốc nữa. \q1 \v 6 Vì Ta giận dân Ta đã chọn, \q2 nên sẽ hình phạt họ bằng cách nạp họ vào tay ngươi. \q1 Nhưng ngươi, Ba-by-lôn, chẳng tỏ lòng thương xót họ, \q2 ngươi đã áp bức họ quá sức ngay cả người già. \q1 \v 7 Ngươi tự bảo: ‘Ta sẽ cai trị mãi mãi như nữ hoàng của thế gian!’ \q2 Ngươi chẳng nghĩ đến hậu quả của hành động mình. \b \q1 \v 8 Nghe đây, dân tộc thích hưởng lạc, \q2 sống vô tư và cảm thấy vững chắc. \q1 Ngươi tự bảo: ‘Ta là dân tộc duy nhất, không ai khác. \q2 Ta sẽ không bao giờ như đàn bà góa hay như người mất con.’ \q1 \v 9 Nhưng cả hai điều này sẽ giáng trên ngươi trong phút chốc: \q2 Cùng một ngày, sẽ bị góa bụa và mất con của mình. \q1 Phải, những tai họa này sẽ giáng trên ngươi, \q2 vì ma thuật và bùa mê của ngươi quá nhiều. \q1 \v 10 Ngươi yên tâm trong tội ác của mình. \q2 Ngươi nói: ‘Chẳng ai thấy ta.’ \q2 Nhưng sự ‘khôn ngoan’ và ‘hiểu biết’ của ngươi đã đánh lừa ngươi, \q2 và ngươi tự nhủ: ‘Chỉ duy nhất mình ta, không có ai khác.’ \q1 \v 11 Vì thế, thảm họa sẽ ập đến ngươi, \q2 mà ngươi không biết nó từ đâu đến. \q1 Hoạn nạn sẽ đổ xuống đầu ngươi, \q2 mà ngươi không tìm được đường chạy thoát. \q1 Sự hủy diệt sẽ đập ngươi thình lình, \q2 mà ngươi không liệu trước được. \b \q1 \v 12 Bấy giờ ngươi sẽ dùng những bùa mê tà thuật! \q2 Dùng những thần chú mà ngươi đã luyện từ khi còn nhỏ! \q2 Có lẽ chúng có thể giúp được ngươi. \q2 Hoặc chúng có thể khiến người khác sợ ngươi chăng? \q1 \v 13 Những lời cố vấn khiến ngươi mệt mỏi. \q2 Vậy còn các nhà chiêm tinh, người xem tinh tú, \q2 đoán thời vận có thể báo điềm mỗi tháng ở đâu? \q1 Hãy để chúng đứng lên và cứu ngươi khỏi tai họa xảy đến. \q1 \v 14 Nhưng chúng sẽ như rơm rạ trong lửa thiêu; \q2 chúng không thể tự cứu mình khỏi ngọn lửa. \q1 Ngươi sẽ không nhận được sự cứu giúp nào từ chúng cả; \q2 ngọn lửa của chúng không có chỗ để ngồi sưởi ấm. \q1 \v 15 Tất cả chúng là bạn bè của ngươi, \q2 những người buôn bán với ngươi từ xa xưa, sẽ bỏ chạy theo đường mình, \q2 bịt tai lại không nghe tiếng ngươi kêu khóc.” \c 48 \s1 Dân Ương Ngạnh của Đức Chúa Trời \q1 \v 1 “Hãy nghe Ta, hỡi nhà Gia-cốp, \q2 các con được gọi bằng tên Ít-ra-ên, \q2 và ra từ nguồn Giu-đa. \q1 Hãy nghe, các con nhân danh Chúa Hằng Hữu mà thề, \q2 và cầu khẩn Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên. \q1 Các con đã không giữ lời hứa nguyện \q1 \v 2 dù các con mang tên thành thánh \q2 và tự cho là mình thuộc Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên, \q2 Danh Ngài là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân. \q1 \v 3 Từ lâu Ta đã báo cho các ngươi những việc sẽ xảy ra. \q2 Thình lình Ta hành động, \q2 và tất cả điều báo trước của Ta thành hiện thực. \q1 \v 4 Vì Ta biết các con cứng đầu và ngoan cố. \q2 Cổ các con cứng rắn như sắt. \q2 Trán các con cứng cỏi như đồng. \q1 \v 5 Đó là tại sao Ta đã bảo các con những việc sẽ xảy ra; \q2 Ta đã nói trước với các con những việc Ta sẽ làm. \q2 Để các con không bao giờ nói: ‘Các thần của con đã làm. \q2 Các tượng chạm và tượng đúc đã truyền như thế!’ \q1 \v 6 Các con đã nghe Ta báo trước và đã thấy lời Ta ứng nghiệm, \q2 nhưng các con vẫn ngoan cố không chịu chấp nhận. \q1 Giờ đây, Ta sẽ cho các con biết những điều mới lạ, \q2 những việc bí mật, mà các con chưa nghe. \q1 \v 7 Những việc hoàn toàn mới, không phải từ thời xưa. \q2 Để các con không thể nói: ‘Chúng con đã biết từ lâu rồi!’ \q1 \v 8 Phải, Ta sẽ cho các con biết những việc mới hoàn toàn, \q2 những điều các con chưa từng nghe. \q1 Vì Ta biết rõ các con phản nghịch thế nào. \q2 Các con đã được gọi như vậy từ khi sinh ra. \q1 \v 9 Tuy nhiên, vì mục đích và vì Danh cao trọng của Ta, \q2 Ta sẽ dằn cơn giận và không quét sạch các con. \q1 \v 10 Này, Ta thanh luyện con, nhưng không phải như luyện bạc. \q2 Đúng hơn là Ta thanh luyện con trong lò hoạn nạn. \q1 \v 11 Ta sẽ giải cứu con vì chính Ta— \q2 phải, vì mục đích của Ta! \q1 Ta sẽ không để Danh Ta bị nhục mạ, \q2 và Ta sẽ không nhường vinh quang Ta cho ai cả!” \s1 Tự Do từ Ba-by-lôn \q1 \v 12 “Hãy nghe Ta, hỡi nhà Gia-cốp, \q2 Ít-ra-ên, dân Ta đã chọn! \q2 Ta là Đức Chúa Trời, là Đầu Tiên và Cuối Cùng. \q1 \v 13 Tay Ta đã đặt nền cho trái đất, \q2 tay phải Ta đã giăng các tầng trời trên cao. \q1 Khi Ta gọi các tinh tú, \q2 chúng đều xuất hiện theo lệnh.” \b \q1 \v 14 Có thần nào của các ngươi từng nói việc này? \q2 Chúng dân! Hãy đến đây và lắng nghe: \q2 Chúa Hằng Hữu đã chọn Si-ru làm đồng minh của Ngài. \q1 Chúa sẽ dùng người để kết thúc đế quốc Ba-by-lôn \q2 và hủy diệt quân đội Ba-by-lôn. \b \q1 \v 15 “Ta đã báo trước: Chính Ta đã gọi Si-ru! \q2 Ta sẽ sai người làm nhiệm vụ này và sẽ giúp người thành công. \q1 \v 16 Hãy đến gần Ta và nghe điều này. \q2 Từ lúc bắt đầu, Ta đã cho con biết thật rõ ràng việc sẽ xảy ra.” \b \q1 Và bây giờ Chúa Hằng Hữu Chí Cao và Thần Ngài \q2 đã sai tôi đến trong sứ điệp này. \q1 \v 17 Đây là điều Chúa Hằng Hữu— \q2 Đấng Cứu Chuộc, Đấng Thánh của Ít-ra-ên, phán: \q2 “Ta là Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời các con. \q1 Ta dạy các con để làm ích lợi cho các con \q2 và dẫn các con vào con đường các con phải theo. \q1 \v 18 Ôi, ước gì các con lắng nghe các mệnh lệnh Ta! \q2 Các con đã được bình an như dòng sông êm đềm \q2 và đức công chính các con tỏa ra như các đợt sóng đại dương. \q1 \v 19 Dòng dõi con sẽ đông như cát bờ biển— \q2 con cháu các con không thể nào đếm hết! \q1 Các con sẽ không bị diệt trước mặt Ta, \q2 hay tên các con không bị xóa khỏi dòng tộc.” \b \q1 \v 20 Dù vậy, giờ đây các ngươi được tự do! \q2 Hãy rời khỏi Ba-by-lôn và trốn xa người Canh-đê. \q2 Hãy hát mừng sứ điệp này! \q2 Hãy cất giọng loan báo đến tận cùng trái đất. \q1 Chúa Hằng Hữu đã cứu chuộc đầy tớ Ngài, \q2 là tuyển dân Ít-ra-ên. \q1 \v 21 Dân Chúa không còn khát \q2 khi Chúa dẫn dân Ngài qua hoang mạc. \q1 Chúa đã chẻ đá, \q2 và nước trào ra cho họ uống. \q1 \v 22 Tuy nhiên, Chúa Hằng Hữu phán: \q2 “Người ác không bao giờ được bình an.” \c 49 \s1 Nhiệm Vụ của Đầy Tớ Chúa \q1 \v 1 Hãy nghe tôi, hỡi các hải đảo! \q2 Hãy chú ý, hỡi các dân tộc xa xôi! \q2 Chúa Hằng Hữu đã gọi tôi trước khi tôi sinh ra; \q2 từ trong bụng mẹ, Ngài đã gọi đích danh tôi. \q1 \v 2 Chúa khiến lời xét xử của tôi như gươm bén. \q2 Ngài giấu tôi trong bóng của tay Ngài. \q2 Tôi như tên nhọn trong bao đựng của Ngài. \q1 \v 3 Chúa phán cùng tôi: “Con là đầy tớ Ta, Ít-ra-ên, \q2 và Ta sẽ được tôn vinh qua con.” \q1 \v 4 Tôi thưa: “Nhưng công việc của con thật luống công! \q2 Con đã tốn sức, mà không kết quả. \q2 Nhưng, con đã giao phó mọi việc trong tay Chúa Hằng Hữu; \q2 con sẽ tin cậy Đức Chúa Trời vì phần thưởng con nơi Ngài” \q1 \v 5 Bây giờ, Chúa Hằng Hữu phán— \q2 Đấng đã gọi tôi từ trong lòng mẹ để làm đầy tớ Ngài, \q2 Đấng ra lệnh tôi đem Ít-ra-ên về với Ngài. \q1 Chúa Hằng Hữu đã khiến tôi được tôn trọng \q2 và Đức Chúa Trời tôi đã ban sức mạnh cho tôi. \q1 \v 6 Chúa phán: “Những việc con làm còn lớn hơn việc đem người Ít-ra-ên về với Ta. \q2 Ta sẽ khiến con là ánh sáng cho các dân ngoại, \q2 và con sẽ đem ơn cứu rỗi của Ta đến tận cùng trái đất!” \b \q1 \v 7 Chúa Hằng Hữu, Đấng Cứu Chuộc \q2 và là Đấng Thánh của Ít-ra-ên, \q1 phán với người bị xã hội khinh thường và ruồng bỏ, \q2 với người là đầy tớ của người quyền thế rằng: \q1 “Các vua sẽ đứng lên khi con đi qua. \q2 Các hoàng tử cũng sẽ cúi xuống \q2 vì Chúa Hằng Hữu, Đấng thành tín, \q2 là Đấng Thánh của Ít-ra-ên đã chọn con.” \s1 Lời Hứa Phục Hồi Ít-ra-ên \p \v 8 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Vào đúng thời điểm, Ta sẽ đáp lời con. \q2 Trong ngày cứu rỗi, Ta sẽ giúp đỡ con. \q1 Ta sẽ bảo toàn con và giao con cho các dân \q2 như giao ước của Ta với họ. \q1 Qua con, Ta sẽ khôi phục đất nước Ít-ra-ên \q2 và cho dân hưởng lại sản nghiệp của họ. \q1 \v 9 Ta sẽ gọi các tù nhân: \q2 ‘Hãy ra đi tự do,’ \q2 và những người trong nơi tối tăm: \q1 ‘Hãy vào nơi ánh sáng.’ \q2 Họ sẽ là bầy chiên của Ta, ăn trong đồng cỏ xanh \q2 và trên các đồi núi trước đây là đồi trọc. \q1 \v 10 Họ sẽ không còn đói hay khát nữa. \q2 Hơi nóng mặt trời sẽ không còn chạm đến họ nữa. \q2 Vì ơn thương xót của Chúa Hằng Hữu sẽ dẫn dắt họ; \q2 Chúa sẽ dẫn họ đến các suối nước ngọt. \q1 \v 11 Ta sẽ san bằng các núi cao để làm đường cho họ. \q2 Những đường cái sẽ được mọc trên các thung lũng \q1 \v 12 Kìa, dân Ta sẽ từ các xứ xa trở về, \q2 từ đất phương bắc, phương tây, \q2 và từ Si-nim phương nam xa xôi.” \b \q1 \v 13 Hãy lên, hỡi các tầng trời! \q2 Reo mừng đi, hỡi cả địa cầu! \q2 Xướng ca lên, hỡi các núi đồi! \q1 Vì Chúa Hằng Hữu đã an ủi dân Ngài \q2 và đoái thương những người buồn thảm. \q1 \v 14 Tuy nhiên, Si-ôn vẫn nói: “Chúa Hằng Hữu đã bỏ mặc chúng tôi; \q2 Chúa Hằng Hữu đã quên chúng tôi rồi!” \b \q1 \v 15 “Không bao giờ! Lẽ nào mẹ có thể quên con mình còn đang cho bú? \q2 Bà không thương quý con ruột mình sao? \q2 Nhưng dù mẹ có quên con mình, \q2 Ta vẫn không bao giờ quên con! \q1 \v 16 Này, Ta đã viết tên con trong lòng bàn tay Ta. \q2 Các tường thành của con luôn ở trước mặt Ta. \q1 \v 17 Chẳng bao lâu, con cháu con sẽ gấp rút trở về \q2 và tất cả kẻ hủy diệt ngươi sẽ đi khỏi. \q1 \v 18 Hãy đưa mắt nhìn quanh, \q2 vì con cháu của con sẽ trở về với con.” \q1 Chúa Hằng Hữu phán: “Thật như Ta hằng sống, \q2 chúng nó sẽ như đá quý hay đồ trang sức cô dâu để cho con chưng diện. \b \q1 \v 19 Ngay cả những nơi bị tàn phá nhất trong những vùng hoang vu, \q2 cũng sẽ sớm có dân hồi hương đến sống đông đúc. \q1 Kẻ thù của con là người từng bắt con làm nô lệ \q2 sẽ bỏ chạy xa con. \q1 \v 20 Những thế hệ được sinh ra trong thời gian lưu đày sẽ trở về và nói: \q2 ‘Nơi này chật hẹp quá, xin cho chúng con chỗ rộng hơn!’ \q1 \v 21 Lúc ấy, con sẽ tự hỏi: ‘Ai đã sinh đàn con này cho tôi? \q2 Vì hầu hết con cháu tôi đã bị giết, \q2 và phần còn lại thì bị mang đi lưu đày? \q1 Chỉ một mình tôi ở lại đây. \q2 Đoàn dân này từ đâu đến? \q2 Ai đã sinh ra con cháu này? \q2 Ai đã nuôi chúng lớn cho tôi?’” \p \v 22 Đây là điều Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: \q1 “Này, Ta sẽ đưa một dấu hiệu cho các nước không có Chúa. \q2 Chúng sẽ bồng các con trai của con trong lòng; \q2 chúng sẽ cõng các con gái của con trên vai mà đến. \q1 \v 23 Các vua và các hoàng hậu sẽ phục vụ con \q2 và chăm sóc mọi nhu cầu của con. \q1 Chúng sẽ cúi xuống đất trước con \q2 và liếm bụi nơi chân con. \q1 Lúc ấy, con sẽ biết Ta là Chúa Hằng Hữu. \q2 Những ai trông đợi Ta sẽ chẳng bao giờ hổ thẹn.” \b \q1 \v 24 Của cải bị những người mạnh cướp, ai giựt lại được? \q2 Người công chính bị bắt làm tù ai cứu được? \p \v 25 Nhưng Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Tù binh sẽ được giải thoát, \q2 và của cải trong tay người mạnh sẽ được trả lại. \q1 Vì Ta sẽ chiến đấu với quân thù của con \q2 và giải thoát con dân của con. \q1 \v 26 Ta sẽ nuôi kẻ thù con bằng chính thịt của nó. \q2 Chúng sẽ bị say bởi uống máu mình như say rượu. \q1 Tất cả thế gian\f + \fr 49:26 \fr*\ft Ctd tất cả các loài xác thịt\ft*\f* sẽ biết Ta, Chúa Hằng Hữu, \q2 là Đấng Cứu Rỗi và Đấng Cứu Chuộc con, \q2 là Đấng Quyền Năng của Gia-cốp.” \c 50 \p \v 1 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Có phải mẹ con bị đuổi đi vì Ta từ bỏ người? \q2 Có phải Ta đã bán con làm nô lệ cho chủ nợ của Ta? \q2 Không, con bị bán vì tội lỗi của con. \q2 Và mẹ con cũng vậy, bị lấy đi vì tội lỗi của con. \q1 \v 2 Tại sao khi Ta đến, không thấy ai cả? \q2 Tại sao không ai trả lời khi Ta gọi? \q2 Có phải vì Ta không có năng quyền để giải cứu? \q2 Không, đó không phải là lý do! \q2 Vì Ta có quyền quở biển thì nó liền khô cạn! \q2 Ta có quyền biến sông ngòi thành hoang mạc với đầy cá chết. \q1 \v 3 Ta có quyền mặc áo đen cho các tầng trời, \q2 và phủ lên chúng một chiếc bao gai.”\f + \fr 50:3 \fr*\ft Ctd áo vải thô (bận khi than khóc)\ft*\f* \s1 Đầy Tớ Vâng Lời của Chúa Hằng Hữu \q1 \v 4 Chúa Hằng Hữu Chí Cao đã dạy tôi những lời khôn ngoan \q2 để tôi biết lựa lời khích lệ người ngã lòng. \q1 Mỗi buổi sáng, Ngài đánh thức tôi dậy \q2 và mở trí tôi để hiểu ý muốn Ngài. \q1 \v 5 Chúa Hằng Hữu Chí Cao đã phán với tôi, \q2 và tôi lắng nghe. \q2 Tôi không hề chống lại hay bỏ chạy. \q1 \v 6 Tôi đưa lưng cho người ta đánh \q2 và đưa má cho người ta tát. \q1 Tôi không che mặt \q2 khi bị người ta sỉ vả và nhổ vào mặt. \b \q1 \v 7 Bởi vì Chúa Hằng Hữu Chí Cao giúp đỡ tôi, \q2 tôi sẽ không bị sỉ nhục.\f + \fr 50:7 \fr*\ft Nt hổ thẹn\ft*\f* \q1 Vì thế, tôi làm cho mặt mình cứng như kim cương, \q2 quyết tâm làm theo ý muốn Ngài. \q2 Và tôi biết tôi sẽ không bị hổ thẹn. \q1 \v 8 Đấng cho tôi công lý\f + \fr 50:8 \fr*\ft Nt Đấng xưng tôi là công chính\ft*\f* sắp xuất hiện. \q2 Ai dám mang trách nhiệm chống nghịch tôi bây giờ? \q2 Người buộc tội tôi ở đâu? \q2 Hãy để chúng ra mặt! \q1 \v 9 Kìa, Chúa Hằng Hữu Chí Cao bên cạnh tôi! \q2 Ai dám công bố tôi có tội? \q1 Tất cả kẻ thù tôi sẽ bị hủy diệt \q2 như chiếc áo cũ bị sâu ăn! \b \q1 \v 10 Ai trong các ngươi kính sợ Chúa Hằng Hữu \q2 và vâng lời đầy tớ Ngài? \q1 Nếu ngươi đi trong bóng tối \q2 và không có ánh sáng, \q1 hãy tin cậy Chúa Hằng Hữu \q2 và nương tựa nơi Đức Chúa Trời ngươi. \q1 \v 11 Nhưng hãy cẩn thận, hỡi những người sống trong ánh sáng riêng \q2 và sưởi ấm mình nơi lò lửa mình đã đốt. \q1 Đây là phần thưởng ngươi sẽ nhận từ Ta: \q2 Ngươi sẽ sống trong buồn rầu, đau đớn. \c 51 \s1 Kêu Gọi Tin Cậy Chúa Hằng Hữu \q1 \v 1 “Hãy nghe Ta, những ai hy vọng được giải thoát— \q2 và tìm kiếm Chúa Hằng Hữu! \q1 Hãy hướng về tảng đá nơi con được đẽo ra \q2 và mỏ đá nơi con được đào lên. \q1 \v 2 Hãy nhìn xem Áp-ra-ham, tổ phụ con, \q2 và Sa-ra, người đã sinh ra dân tộc con. \q1 Ta đã gọi Áp-ra-ham khi người chỉ có một mình, \q2 Nhưng khi Ta ban phước cho người, \q2 thì người trở nên một dân tộc vĩ đại.” \b \q1 \v 3 Vì Chúa Hằng Hữu sẽ an ủi Si-ôn một lần nữa \q2 và an ủi chốn hoang tàn của nó. \q1 Sa mạc của nó sẽ nở hoa như vườn Ê-đen, \q2 hoang mạc cằn cỗi như vườn của Chúa Hằng Hữu. \q1 Nơi ấy, vang tiếng reo vui và mừng rỡ. \q2 Các bài ca cảm tạ sẽ vang đầy không gian. \b \q1 \v 4 “Hãy nghe Ta, hỡi dân Ta. \q2 Hãy nghe, hỡi Ít-ra-ên \q2 vì luật pháp Ta sẽ được công bố, \q2 và công chính Ta sẽ là ánh sáng cho các dân tộc. \q1 \v 5 Sự thương xót và công chính của Ta sẽ sớm đến. \q2 Sự cứu rỗi của Ta đang đến. \q2 Cánh tay mạnh mẽ của Ta sẽ mang công bình đến các dân tộc. \q1 Các hải đảo xa xôi trông đợi Ta \q2 và hy vọng nơi cánh tay quyền năng của Ta. \q1 \v 6 Hãy nhìn lên bầu trời trên cao, \q2 rồi cúi nhìn dưới đất thấp. \q1 Vì bầu trời sẽ tan biến như làn khói, \q2 và đất sẽ cũ mòn như áo xống. \q1 Vì các dân tộc trên đất sẽ chết như ruồi, \q2 nhưng sự cứu rỗi Ta còn mãi đời đời. \q1 Công chính Ta sẽ không bao giờ tận! \b \q1 \v 7 Hãy nghe Ta, hỡi những người hiểu biết công lý \q2 và được luật pháp Ta ghi khắc trong lòng. \q1 Đừng sợ những lời khinh miệt của loài người, \q2 hay lời lăng mạ của họ. \q1 \v 8 Vì mối mọt sẽ ăn chúng như ăn chiếc áo mục. \q2 Sâu bọ sẽ cắn nát chúng như cắn len. \q2 Nhưng sự công chính Ta tồn tại đời đời. \q2 Sự cứu rỗi Ta truyền từ đời này sang đời khác.” \b \q1 \v 9 Lạy Chúa Hằng Hữu! Xin thức dậy, thức dậy mặc lấy năng lực! \q2 Làm mạnh cánh tay phải quyền năng của Ngài! \q1 Xin chỗi dậy như những ngày xưa cũ \q2 khi Ngài chặt Ra-háp\f + \fr 51:9 \fr*\ft Ai Cập\ft*\f* ra từng khúc, con rồng của sông Nin. \q1 \v 10 Chẳng phải hôm nay, không phải Chúa \q2 là Đấng đã làm cho biển khô cạn, \q1 và mở đường thoát xuyên qua biển sâu \q2 để dân Ngài có thể băng qua sao? \q1 \v 11 Sẽ có ngày, những người được Chúa Hằng Hữu cứu chuộc sẽ trở về. \q2 Họ sẽ lên Si-ôn với lời ca tiếng hát, \q2 mão miện của họ là niềm vui bất tận. \q1 Nỗi buồn đau và than khóc sẽ biến tan, \q2 lòng họ đầy tràn hân hoan và vui vẻ. \b \q1 \v 12 “Ta, phải chính Ta, là Đấng an ủi con. \q2 Vậy tại sao con phải sợ loài người, \q2 là loài tàn úa như hoa cỏ, sớm còn tối mất? \q1 \v 13 Vậy mà con lại quên Chúa Hằng Hữu là Đấng Tạo Hóa, \q2 là Đấng đã giăng các tầng trời và đặt nền trái đất. \q1 Chẳng lẽ suốt ngày con cứ sợ quân thù hung bạo áp bức con? \q2 Hay con tiếp tục sợ hãi nộ khí của kẻ thù con sao? \q2 Sự điên tiết và cơn giận của chúng bây giờ ở đâu? \q2 Nó đã đi mất rồi! \q1 \v 14 Chẳng bao lâu, tù binh và nô lệ sẽ được phóng thích! \q2 Các con sẽ không còn bị giam cầm, đói khát, và chết chóc nữa! \q1 \v 15 Vì Ta là Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của con, \q2 là Đấng tạo sóng bổ ầm ầm. \q1 Danh Ta là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân. \q1 \v 16 Ta đã đặt các lời Ta trong miệng con \q2 và Ta sẽ dùng bóng bàn tay Ta che phủ con. \q1 Ta sẽ tạo nên các tầng trời \q2 và lập nên trái đất. \q1 Ta là Đấng đã bảo Si-ôn: \q2 ‘Ngươi là dân Ta!’” \q1 \v 17 Giê-ru-sa-lem, thức dậy, thức dậy đi! \q2 Ngươi đã uống xong chén đoán phạt của Chúa Hằng hữu. \q1 Ngươi đã uống cạn chén kinh hoàng \q2 cho đến giọt cuối cùng. \q1 \v 18 Trong các con trai mà Giê-ru-sa-lem đã sinh ra, \q2 chẳng còn đứa nào cầm tay nó và dẫn dắt nó. \q1 \v 19 Ngươi đã bị hai tai họa giáng trên ngươi: \q2 Tàn phá và diệt vong, đói kém và gươm dao. \q2 Còn ai sống sót để chia buồn với ngươi? \q2 Còn ai sống sót để an ủi ngươi? \q1 \v 20 Vì con cái ngươi đã ngất xỉu và nằm la liệt trong các đường phố, \q2 như con hươu bị mắc lưới của thợ săn. \q1 Chúa Hằng Hữu đã đổ cơn giận của Ngài; \q2 Đức Chúa Trời đã hình phạt chúng. \b \q1 \v 21 Nhưng bây giờ hãy nghe điều này, hỡi người khốn khổ, \q2 ngươi đang ngồi trong cơn say cuồng, \q2 nhưng không phải say vì rượu. \q1 \v 22 Đây là điều Chúa Hằng Hữu Chí Cao, \q2 Đức Chúa Trời và Đấng bảo vệ ngươi, phán: \q2 “Kìa, Ta sẽ cất chén rượu thịnh nộ từ tay con. \q2 Con sẽ không bao giờ phải uống chén thịnh nộ của Ta nữa. \q1 \v 23 Thay vào đó, Ta sẽ cho người hành hạ ngươi uống chén thịnh nộ ấy, \q2 là người đã nói với ngươi rằng: ‘Chúng ta sẽ giẫm đạp ngươi trong đất \q2 và bước đi trên lưng ngươi.’” \c 52 \s1 Sự Giải Cứu cho Giê-ru-sa-lem \q1 \v 1 Si-ôn, hãy vùng dậy! Vùng dậy! \q1 Hãy mặc sức mạnh của ngươi! \q2 Thành thánh Giê-ru-sa-lem, hãy mặc áo đẹp \q2 vì những người ô uế và không tin kính sẽ không được vào thành nữa. \q1 \v 2 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy giũ bụi. \q2 Hãy ngồi lên ngai. \q1 Hỡi con gái Si-ôn, là kẻ bị tù, \q2 hãy tháo xích khỏi cổ ngươi. \p \v 3 Vì đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Khi Ta bán các con làm nô lệ \q2 Ta không được trả tiền. \q1 Nay Ta chuộc lại các con \q2 cũng không cần tiền bạc.” \p \v 4 Đây là điều Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: “Trước kia, dân Ta xuống ngụ tại Ai Cập, nhưng họ bị người A-sy-ri áp bức.” \v 5 Chúa Hằng Hữu hỏi: “Bây giờ, tình trạng dân Ta sao lại thê thảm thế này? Tại sao dân Ta lại bị làm nô lệ và bị áp bức vô cớ? Những người thống trị la hét. Danh Ta bị sỉ nhục suốt ngày. \v 6 Chính vì thế, Ta sẽ tỏ Danh của Ta cho dân Ta, và họ sẽ biết quyền lực của Ta. Rồi cuối cùng họ sẽ nhìn nhận rằng Ta là Đấng đã phán bảo họ.” \q1 \v 7 Trên khắp núi cao đồi cả, \q2 gót chân những người báo tin mừng, \q1 tin mừng hòa bình và cứu rỗi, \q2 tin về Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên tể trị! \q1 \v 8 Hãy nghe, các người canh gác đang reo mừng ca hát \q2 vì trước mỗi đôi mắt của họ, \q2 họ thấy đoàn dân được Chúa Hằng Hữu đem về Si-ôn. \q1 \v 9 Hãy để các tường thành đổ nát của Giê-ru-sa-lem hoan ca \q2 vì Chúa Hằng Hữu đã an ủi dân Ngài. \q1 Ngài đã khôi phục Giê-ru-sa-lem. \q1 \v 10 Chúa Hằng Hữu đã ra tay thánh\f + \fr 52:10 \fr*\ft Nt để trần cánh tay thánh\ft*\f* quyền năng của Ngài \q2 trước mắt các dân tộc. \q1 Tận cùng trái đất sẽ thấy \q2 chiến thắng khải hoàn của Đức Chúa Trời chúng ta. \q1 \v 11 Hãy ra đi! Đi ngay và lìa bỏ xích xiềng nô lệ, \q2 bất cứ nơi nào con đụng đến đều ô uế. \q1 Hãy rời khỏi đó và thanh tẩy thân mình, \q2 các con là người mang khí dụng của Chúa Hằng Hữu. \q1 \v 12 Các con ra đi không cần vội vã \q2 hay trốn tránh. \q1 Vì Chúa Hằng Hữu sẽ đi trước các con; \q2 phải, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên sẽ đi sau bảo vệ các con. \s1 Sự Đau Đớn của Đầy Tớ Chúa Hằng Hữu \q1 \v 13 Này, Đầy Tớ Ta sẽ thịnh vượng; \q2 Người sẽ được tôn trọng tán dương. \q1 \v 14 Nhiều người ngạc nhiên khi thấy Người. \q2 Mặt Người biến dạng không còn giống người nào, \q2 và hình dạng Người không còn giống loài người nữa. \q1 \v 15 Người sẽ tẩy rửa nhiều dân tộc. \q2 Đứng trước mặt Người, các vua sẽ im thin thít. \q2 Vì chúng sẽ thấy điều chưa nghe nói trước kia; \q2 chúng sẽ hiểu những điều chưa bao giờ được nghe. \c 53 \p \v 1 Ai tin được điều chúng tôi đã nghe?\f + \fr 53:1 \fr*\ft Ctd lời trình báo của chúng tôi (chỉ về lời tiên tri cuối chương 52)\ft*\f* \q1 Và ai đã được thấy cánh tay uy quyền của Chúa Hằng Hữu? \q1 \v 2 Đầy Tớ Ta lớn lên trước mặt Chúa Hằng Hữu như cây non nứt lộc \q2 như gốc rễ mọc trong lòng đất khô hạn. \q1 Người chẳng có dáng vẻ, chẳng oai phong đáng để ngắm nhìn. \q2 Dung nhan không có gì cho chúng ta ưa thích. \q1 \v 3 Người bị loài người khinh dể và khước từ— \q2 từng trải đau thương, quen chịu sầu khổ. \q1 Chúng ta quay lưng với Người và nhìn sang hướng khác. \q2 Người bị khinh miệt, chúng ta chẳng quan tâm. \q1 \v 4 Tuy nhiên, bệnh tật của chúng ta Người mang; \q2 sầu khổ của chúng ta đè nặng trên Người. \q1 Thế mà chúng ta nghĩ phiền muộn của Người là do Đức Chúa Trời hình phạt, \q2 hình phạt vì chính tội lỗi của Người. \q1 \v 5 Nhưng Người bị đâm vì phản nghịch của chúng ta, \q2 bị nghiền nát vì tội lỗi của chúng ta. \q1 Người chịu đánh đập để chúng ta được bình an. \q2 Người chịu đòn vọt để chúng ta được chữa lành. \q1 \v 6 Tất cả chúng ta đều như chiên đi lạc, \q2 mỗi người một ngả. \q1 Thế mà Chúa Hằng Hữu đã chất trên Người \q2 tất cả tội ác của chúng ta. \q1 \v 7 Tuy bị bạc đãi và áp bức, \q2 nhưng Người chẳng nói một lời nào, \q1 Người như chiên con bị đưa đi làm thịt. \q2 Như chiên câm khi bị hớt lông, \q2 Người cũng chẳng mở miệng. \q1 \v 8 Người đã bị ức hiếp, xử tội, và giết đi. \q2 Không một ai quan tâm Người chết trong cô đơn, \q2 cuộc sống Người nửa chừng kết thúc. \q1 Nhưng Người bị đánh đập đến chết \q2 vì sự phản nghịch của dân Người. \q1 \v 9 Người không làm điều gì sai trái \q2 và không bao giờ dối lừa ai. \q1 Người chết như một tử tội, \q2 nhưng lại được chôn trong mộ người giàu. \q1 \v 10 Tuy nhiên, chương trình tốt đẹp của Chúa Hằng Hữu \q2 là để Người chịu sỉ nhục và đau thương. \q1 Sau khi hy sinh tính mạng làm tế lễ chuộc tội, \q2 Người sẽ thấy dòng dõi mình. \q1 Ngày của Người sẽ trường tồn, \q2 bởi tay Người, ý Chúa sẽ được thành đạt. \q1 \v 11 Khi Người thấy kết quả tốt đẹp của những ngày đau thương, \q2 Người sẽ hài lòng. \q2 Nhờ từng trải\f + \fr 53:11 \fr*\ft Nt tri thức\ft*\f* của Người, \q1 Đầy Tớ Công Chính Ta, nhiều người được tha tội \q2 và được kể là công chính \q2 vì Người mang gánh tội ác của họ. \q1 \v 12 Do đó, Ta sẽ cho Người sự cao trọng như một chiến sĩ thắng trận, \q2 vì Ngài đã trút đổ linh hồn mình cho đến chết. \q1 Người bị liệt vào hàng tội nhân. \q2 Ngài đã mang gánh tội lỗi của nhiều người và cầu thay cho người phạm tội. \c 54 \s1 Vinh Quang của Giê-ru-sa-lem Tương Lai \q1 \v 1 “Hãy hát xướng, hỡi phụ nữ hiếm muộn, \q2 phụ nữ chưa bao giờ sinh con! \q1 Hãy cất tiếng hát ca và reo hò, hỡi Giê-ru-sa-lem, \q2 ngươi chưa bao giờ biết đau đớn khi sinh nở. \q1 Vì phụ nữ bị bỏ sẽ đông con \q2 hơn phụ nữ có chồng.” \q1 Chúa Hằng Hữu phán vậy. \q1 \v 2 “Hãy nới rộng lều; căng trại rộng thêm, đừng giới hạn. \q2 Cứ giăng dây cho dài, đóng cọc cho chắc! \q1 \v 3 Vì bờ cõi ngươi sẽ phát triển cả bên trái lẫn bên phải. \q2 Dòng dõi ngươi sẽ chiếm hữu nhiều nước, \q2 và các thành hoang vu sẽ có dân cư đông đảo. \b \q1 \v 4 Chớ sợ; ngươi không còn bị nhục nữa. \q2 Đừng sợ hãi; không còn ai ghét bỏ ngươi. \q1 Ngươi sẽ không còn nhớ những nhơ nhuốc thời niên thiếu \q2 và cảnh góa bụa buồn thảm nữa. \q1 \v 5 Vì Đấng Tạo Hóa ngươi sẽ là chồng ngươi; \q2 Chúa Hằng Hữu Vạn Quân là Danh Ngài! \q2 Ngài là Đấng Cứu Chuộc ngươi, Đấng Thánh của Ít-ra-ên, \q2 Đức Chúa Trời của cả trái đất. \q1 \v 6 Vì Chúa Hằng Hữu đã gọi ngươi về từ sầu khổ— \q2 như gọi người vợ trẻ bị chồng mình ruồng bỏ.” \q1 Đức Chúa Trời ngươi phán vậy. \q1 \v 7 “Ta chỉ bỏ ngươi trong chốc lát, \q2 nhưng Ta sẽ đem ngươi về với lòng thương xót vô hạn. \q1 \v 8 Trong lúc giận, Ta xây mặt không nhìn ngươi. \q2 Nhưng Ta sẽ yêu ngươi với tình yêu đời đời.” \q2 Chúa Hằng Hữu là Đấng Cứu Chuộc ngươi phán vậy. \b \q1 \v 9 “Như thời Nô-ê, Ta đã thề \q2 không bao giờ cho nước lụt phủ khắp mặt đất, \q1 bây giờ Ta cũng thề \q2 sẽ chẳng bao giờ nổi giận và hình phạt ngươi. \q1 \v 10 Dù cho núi có thể dời \q2 và đồi biến mất, \q2 nhưng lòng nhân từ Ta đối với ngươi vẫn tiếp tục. \q1 Giao ước bình an của Ta với ngươi không bao giờ thay đổi.” \q2 Chúa Hằng Hữu là Đấng thương xót ngươi phán vậy. \b \q1 \v 11 “Hỡi những người đang ưu phiền sầu khổ, \q2 bị sóng đời dồi dập, không bao giờ được ủi an. \q1 Ta sẽ xây lại ngươi bằng đá quý giá \q2 và đặt nền ngươi bằng tảng bích ngọc. \q1 \v 12 Ta sẽ xây các tháp ngươi bằng hồng ngọc, \q2 các cổng ngươi bằng pha lê, \q2 và các tường thành ngươi bằng đá quý. \q1 \v 13 Ta sẽ dạy dỗ tất cả con cái ngươi, \q2 chúng sẽ được tận hưởng bình an, thịnh vượng. \q1 \v 14 Ngươi sẽ được vững lập trong sự công chính và công bằng. \q2 Kẻ thù sẽ không còn áp bức các ngươi. \q1 Ngươi sẽ sống trong nơi bình an, \q2 và kinh hoàng sẽ không đến gần ngươi nữa. \q1 \v 15 Nếu quốc gia nào tiến đánh ngươi, \q2 thì đó không phải bởi Ta sai đến. \q1 Bất cứ ai tấn công ngươi sẽ ngã thảm hại. \b \q1 \v 16 Này! Ta đã tạo ra thợ rèn, \q2 họ sẽ thổi lửa đốt than dưới lò nung \q2 chế tạo đủ loại khí giới hủy diệt. \q1 Chính Ta cũng tạo nên đội quân để hủy phá. \q1 \v 17 Nhưng đến ngày ấy, \q2 không một vũ khí nào được chế tạo để chống ngươi lại thành công. \q1 Ngươi sẽ yên lặng trước các lời \q2 tố cáo của những người kiện cáo ngươi. \q1 Đây là cơ nghiệp của các đầy tớ Chúa Hằng Hữu; \q2 mọi sự xác minh của họ do Ta ban cho. \q2 Ta, Chúa Hằng Hữu đã phán vậy!” \c 55 \s1 Mời Vào Sự Cứu Rỗi của Chúa Hằng Hữu \q1 \v 1 “Có ai đang khát? \q2 Hãy đến với Ta mà uống— \q2 dù các con không có tiền! \q2 Hãy đến, chọn rượu hay sữa— \q2 tất cả đều được cho không. \q1 \v 2 Sao phải chi tiền cho thực phẩm không làm các con mạnh? \q2 Sao phải trả tiền cho thực phẩm chẳng làm các con no? \q2 Hãy nghe Ta, và các con sẽ ăn thức ăn ngon. \q2 Các con sẽ thỏa vui với những thức ăn béo bổ. \b \q1 \v 3 Hãy đến gần và mở rộng đôi tai của các con. \q2 Hãy lắng nghe, thì các con sẽ tìm được sự sống. \q2 Ta sẽ kết giao ước đời đời với các con. \q2 Ta sẽ cho các con hưởng tình yêu vững bền Ta đã hứa cho Đa-vít. \q1 \v 4 Nhìn xem, Ta đã dùng người để bày tỏ quyền năng của Ta giữa các dân tộc. \q2 Ta đã khiến người làm lãnh đạo giữa nhiều nước. \q1 \v 5 Ta cũng sẽ ra lệnh các quốc gia mà con không quen biết, \q2 và các dân tộc không biết con sẽ chạy đến phục tùng con, \q2 vì Ta, Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời con, \q1 Đấng Thánh của Ít-ra-ên, đã làm con được vinh quang.” \b \q1 \v 6 Hãy tìm kiếm Chúa Hằng Hữu đương khi còn cơ hội gặp. \q2 Hãy kêu cầu Chúa khi Ngài ở gần. \q1 \v 7 Hãy bỏ những việc gian ác, \q2 và loại các tư tưởng xấu xa.\f + \fr 55:7 \fr*\ft Nt người gian ác\ft*\f* \q1 Hãy quay về với Chúa Hằng Hữu vì Ngài sẽ thương xót họ. \q2 Phải, hãy trở lại với Đức Chúa Trời con, vì Ngài tha thứ rộng lượng. \b \q1 \v 8 Chúa Hằng Hữu phán: “Ý tưởng Ta khác hẳn ý tưởng các con. \q2 Đường lối các con khác hẳn đường lối Ta. \q1 \v 9 Vì như các trời cao hơn đất bao nhiêu, \q2 thì đường lối Ta cao xa hơn đường lối các con, \q2 và tư tưởng Ta cao hơn tư tưởng các con bấy nhiêu. \q1 \v 10 Như mưa và tuyết rơi từ trời xuống, \q2 và ở lại trên đất để đượm nhuần đất đai, \q1 giúp thóc lúa lớn lên, \q2 cung cấp hạt giống cho người gieo \q2 và bánh cho người đói, \q1 \v 11 Thì lời của Ta cũng vậy, \q2 Ta đã nói ra, sẽ sinh ra trái. \q1 Nó sẽ thực hiện mọi điều Ta muốn \q2 và hoàn thành mục đích Ta giao. \q1 \v 12 Còn con sẽ sống trong hân hoan và bình an. \q2 Núi và đồi sẽ cất tiếng hát trước con, \q2 và mọi cây cối ngoài đồng sẽ vỗ tay! \q1 \v 13 Gai gốc sẽ nhường chỗ cho tùng bách. \q2 Cây sim thay thế gai gốc. \q2 Mọi điều này sẽ đem vinh quang cao quý về cho Danh Chúa Hằng Hữu; \q2 và làm một dấu chỉ đời đời về quyền năng và tình yêu của Ngài không hề tuyệt diệt.” \c 56 \s1 Phước Lành cho Mọi Dân Tộc \p \v 1 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Hãy sống chính trực và công bằng với mọi người. \q2 Hãy làm điều đúng và thiện, \q1 vì Ta sẽ sớm đến giải cứu các con \q2 và thể hiện sự công chính Ta giữa các con. \q1 \v 2 Phước cho những ai \q2 làm theo điều này cách cẩn thận. \q1 Phước cho những ai tôn trọng ngày Sa-bát, \q2 và giữ mình không phạm vào việc ác!” \b \q1 \v 3 “Người nước ngoài đã theo Chúa đừng nói: \q2 ‘Chúa Hằng Hữu sẽ không bao giờ kể tôi là dân của Ngài.’ \q2 Và người hoạn chớ nói: \q2 ‘Tôi là một cây khô không con và không có tương lai.’ \p \v 4 Vì đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q1 Ta sẽ ban phước cho người hoạn, \q2 những người giữ ngày Sa-bát thánh, \q1 chọn những điều hài lòng Ta, \q2 và giữ giao ước với Ta. \q1 \v 5 Ta sẽ dành cho họ—trong các tường thành của nhà Ta— \q2 một kỷ niệm và một danh \q2 cao hơn con trai và con gái Ta. \q1 Vì danh Ta cho họ là danh đời đời. \q2 Một danh không bao giờ bị tiêu diệt!” \b \q1 \v 6 Ta cũng sẽ ban phước các dân tộc nước ngoài đã cam kết theo Chúa Hằng Hữu, \q2 đã phục vụ Ngài và yêu mến Danh Ngài, \q1 thờ phượng Ngài và không vị phạm luật ngày Sa-bát, \q2 nhưng tuân giữ giao ước Chúa. \q1 \v 7 Ta sẽ cho họ được đem lên núi thánh Giê-ru-sa-lem, \q2 và được hân hoan trong nhà cầu nguyện Ta. \q1 Ta sẽ nhậm tế lễ thiêu và sinh tế họ dâng, \q2 vì Đền Thờ Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho tất cả các dân tộc. \q1 \v 8 Vì Chúa Hằng Hữu Chí Cao, \q2 Đấng triệu tập những người Ít-ra-ên bị tản lạc, phán: \q1 “Ta cũng sẽ đem về nhiều dân tộc khác, \q2 ngoài Ít-ra-ên, dân Ta.” \s1 Lên Án Tội Lỗi của Các Cấp Lãnh Đạo \q1 \v 9 Hãy đến, tất cả thú dữ ngoài đồng! \q2 Hãy đến, tất cả thú dữ trong rừng! \q2 Hãy đến và cắn xé dân Ta! \q1 \v 10 Vì các lãnh đạo của dân Ta— \q2 người canh giữ của Chúa Hằng Hữu, người chăn chiên của Ngài— \q2 là mù quáng và không biết gì hết. \q1 Chúng như chó câm không biết sủa, \q2 không cảnh báo khi nguy hiểm đến gần. \q1 Chúng chỉ thích nằm dài, ngủ và mơ mộng. \q1 \v 11 Như một con chó tham lam, chúng không biết thỏa mãn. \q2 Chúng như người chăn không hiểu biết, \q1 tất cả chúng chỉ đi theo đường riêng của mình \q2 và đục khoét trục lợi cho riêng mình. \q1 \v 12 Chúng rủ nhau: “Mời đến đây, uống rượu và dự tiệc. \q2 Chúng ta cùng nhau say túy lúy. \q1 Ngày mai cũng liên hoan như vậy \q2 mà còn hơn thế nữa!” \c 57 \q1 \v 1 Người công chính chết đi; \q2 người tin kính thường chết trước hạn kỳ. \q1 Nhưng dường như không ai quan tâm hay thắc mắc. \q2 Dường như không ai hiểu rằng \q2 Đức Chúa Trời đang bảo vệ họ khỏi tai họa sắp đến. \q1 \v 2 Vì người sống ngay thẳng \q2 sẽ được an nghỉ khi họ qua đời. \s1 Lên Án Tội Thờ Thần Tượng \q1 \v 3 “Nhưng ngươi—hãy đến đây, các ngươi là con cháu của phù thủy, \q2 dòng dõi của bọn ngoại tình và tà dâm! \q1 \v 4 Các ngươi chế nhạo ai, \q2 nhăn mặt, lè lưỡi để giễu cợt ai? \q1 Các ngươi là con cháu của bọn gian ác và dối trá. \q1 \v 5 Các ngươi sốt sắng thờ lạy thần tượng \q2 dưới bóng mỗi cây cổ thụ và dưới mỗi cây xanh. \q1 Các ngươi giết con mình để dâng tế lễ \q2 cho tà thần dưới trũng, nơi vách đá lởm chởm. \q1 \v 6 Thần tượng các ngươi là các tảng đá nhẵn bóng trong các thung lũng. \q2 Các ngươi thờ phượng chúng với rượu và tế lễ chay. \q2 Chúng nó, không phải Ta, là cơ nghiệp của ngươi. \q2 Các ngươi nghĩ những việc này có làm Ta vui không? \q1 \v 7 Các ngươi đã phạm tội gian dâm trên núi cao. \q2 Nơi đó các ngươi đã thờ thần tượng. \q1 \v 8 Các ngươi đặt một biểu tượng tà thần \q2 trên trụ cửa và phía sau cánh cửa. \q1 Các ngươi lìa bỏ Ta \q2 và leo vào giường với các thần ghê tởm này. \q1 Các ngươi kết giao ước với chúng. \q2 Các ngươi thích nhìn ngắm sự lõa lồ của chúng. \q1 \v 9 Các ngươi dâng dầu ô-liu cho thần Mô-lóc\f + \fr 57:9 \fr*\ft Ctd vua\ft*\f* \q2 cùng nhiều loại hương thơm. \q1 Các ngươi cất công đi tìm kiếm rất xa, \q2 vào đến tận âm phủ, \q2 để tìm các thần mới về thờ. \q1 \v 10 Dù phải cực nhọc đi xa mệt mỏi, \q2 các ngươi không bao giờ bỏ cuộc. \q1 Dục vong đã cho các ngươi sức mới \q2 và các ngươi không biết mệt mỏi. \q1 \v 11 Có phải các ngươi sợ những tà thần này? \q2 Chúng không làm các ngươi khiếp sợ sao? \q1 Có phải đó là lý do các ngươi dối gạt Ta, \q2 quên hẳn Ta và những lời của Ta? \q1 Có phải vì Ta im lặng quá lâu \q2 nên các ngươi không kính sợ Ta nữa? \q1 \v 12 Bây giờ Ta sẽ phơi bày nếp sống thiện lành của các ngươi. \q2 Những thứ ấy chẳng ích lợi gì cho các ngươi cả. \q1 \v 13 Để xem các thần tượng có thể cứu các ngươi \q2 khi các ngươi kêu khóc xin chúng cứu. \q1 Thật ra gió sẽ càn quét các thần tượng ấy! \q2 Chỉ một làn gió thoảng đủ tiêu diệt tất cả. \q1 Nhưng người nào ẩn náu trong Ta sẽ được thừa hưởng đất \q2 và ở trên núi thánh Ta.” \s1 An Ủi cho Người Thống Hối \q1 \v 14 Đức Chúa Trời phán: “Hãy sửa mới con đường! \q2 Làm sạch sỏi và đá để dân Ta trở về.” \q1 \v 15 Đấng Cao Cả và Chí Tôn đang ngự trong cõi đời đời, \q2 là Đấng Thánh phán dạy điều này: \q1 “Ta ngự trong nơi cao và thánh \q2 với những người thống hối và khiêm nhường. \q1 Ta phục hồi tâm linh người khiêm nhường \q2 và làm cho những tâm hồn thống hối được hồi sinh. \q1 \v 16 Vì Ta không buộc tội luôn; \q2 Ta cũng không giận mãi. \q2 Nếu Ta tiếp tục, thì cả nhân loại sẽ bị tiêu diệt— \q2 các linh hồn Ta dựng nên cũng không còn. \q1 \v 17 Ta đã từng nổi giận, \q2 đánh phạt những người tham lam. \q1 Ta ẩn mặt khỏi chúng \q2 nhưng chúng vẫn tiếp tục cứng đầu trong tội lỗi mình. \q1 \v 18 Ta đã thấy những gì chúng làm, \q2 nhưng Ta vẫn cứ chữa lành chúng! \q1 Ta sẽ lãnh đạo chúng, \q2 Ta sẽ an ủi những ai thống hối, \q1 \v 19 đem lời ngợi tôn trên môi họ. \q2 Dù ở gần hay ở xa, đều sẽ được bình an và chữa lành,” \q2 Chúa Hằng Hữu, Đấng chữa lành họ, phán vậy. \q1 \v 20 “Còn những ai ngoan cố khước từ Ta sẽ như biển động, \q2 không bao giờ an tịnh \q2 nhưng cứ nổi lên bùn lầy và đất dơ. \q1 \v 21 Bọn gian tà chẳng bao giờ được bình an,” \q2 Đức Chúa Trời của tôi đã phán. \c 58 \s1 Thờ Phượng Thật và Giả \q1 \v 1 “Hãy lớn tiếng như thổi loa. \q2 Hãy kêu to! Đừng e ngại! \q2 Hãy tố cáo tội lỗi của Ít-ra-ên, dân Ta! \q1 \v 2 Thế mà chúng làm ra vẻ mộ đạo! \q2 Chúng đến Đền Thờ mỗi ngày, \q2 tìm kiếm Ta, giả bộ vui mừng về đường lối Ta. \q1 Chúng hành động như thể là một dân tộc công chính \q2 chưa bao giờ bỏ bê mệnh lệnh Đức Chúa Trời. \q1 Chúng cầu hỏi Ta về công lý khi xử đoán, \q2 và vui mừng đến gần Đức Chúa Trời. \q1 \v 3 Chúng còn chất vấn Ta: ‘Chúng con kiêng ăn trước mặt Chúa! \q2 Sao Chúa không thấy? \q1 Chúng con hạ mình cầu nguyện, \q2 vậy mà Chúa không thèm để ý!’ \b \q1 Ta đáp: ‘Ta sẽ cho các ngươi biết tại sao! \q2 Vì các ngươi kiêng ăn để thỏa mãn mình. \q1 Trong khi các ngươi kiêng ăn, \q2 các ngươi vẫn tiếp tục áp bức người làm công. \q1 \v 4 Kiêng ăn có gì tốt \q2 khi các ngươi cứ tranh chấp và cãi vã với nhau? \q1 Kiêng ăn cách này \q2 thì tiếng cầu nguyện của các ngươi sẽ không thấu đến Ta. \q1 \v 5 Các ngươi tự hạ mình \q2 bằng cách hành xác giả dối, \q1 cúi mọp đầu xuống \q2 như lau sậy trước gió. \q1 Các ngươi mặc bao bố rách nát, \q2 và vãi tro đầy mình. \q1 Có phải đây là điều các ngươi gọi là kiêng ăn? \q2 Các ngươi nghĩ rằng điều này sẽ làm vui lòng Chúa Hằng Hữu sao? \q1 \v 6 Không, đây mới là sự kiêng ăn mà Ta muốn: \q2 Hãy giải thoát những người tù vô tội; \q1 bẻ gãy gông cùm, đập tan xiềng xích, \q2 trả tự do cho người bị áp bức. \q1 \v 7 Chia sẻ thức ăn với người đói, \q2 đem người nghèo không nơi nương tựa về nhà mình, \q1 chu cấp quần áo cho những người rách rưới, \q2 và không lảng tránh khi người bà con cần giúp đỡ.’ ” \q1 \v 8 “Lúc ấy, sự cứu rỗi ngươi sẽ đến như hừng đông, \q2 ngươi sẽ được chữa lành lập tức. \q1 Sự công chính ngươi sẽ đi trước ngươi, \q2 vinh quang Chúa sẽ bảo vệ sau lưng ngươi. \q1 \v 9 Lúc ấy, ngươi cầu xin, Chúa Hằng Hữu sẽ trả lời. \q2 Chúa liền đáp ứng: ‘Có Ta đây!’ \b \q1 Hãy ngừng áp bức người cô thế. \q2 Đừng đặt điều vu cáo, không rỉ tai nói xấu, nói hành! \q1 \v 10 Tận tâm cứu người đói, \q2 và an ủi những tâm hồn đau thương. \q1 Khi ấy ánh sáng ngươi sẽ chiếu rực giữa tối tăm, \q2 sự tối tăm chung quanh ngươi sẽ chiếu sáng như buổi trưa. \q1 \v 11 Chúa Hằng Hữu sẽ dìu dắt ngươi mãi mãi, \q2 cho linh hồn ngươi sung mãn giữa mùa\f + \fr 58:11 \fr*\ft Nt nơi\ft*\f* khô hạn, \q2 và phục hồi năng lực ngươi. \q1 Ngươi sẽ như vườn năng tưới, \q2 như suối nước không bao giờ khô cạn. \q1 \v 12 Dòng dõi ngươi sẽ dựng lại các thành đổ nát. \q2 Rồi ngươi sẽ được gọi là người xây dựng các tường thành \q2 và là người phục hồi phố xá. \q1 \v 13 Hãy giữ ngày Sa-bát. \q2 Không chiều theo sở thích trong ngày ấy, \q1 nhưng cứ vui thích ngày Sa-bát \q2 và ngợi ca hân hoan trong ngày thánh của Chúa Hằng Hữu. \q1 Tôn vinh ngày Sa-bát trong mọi việc ngươi làm, \q2 và không đi theo dục vọng mình hay nói lời phàm tục. \q1 \v 14 Khi ấy Chúa Hằng Hữu sẽ cho ngươi được vui thỏa trong Ngài. \q2 Ta sẽ khiến ngươi được tôn trọng \q2 và cho ngươi cơ nghiệp mà Ta đã hứa với Gia-cốp, tổ phụ ngươi, \q2 Ta, Chúa Hằng Hữu, đã phán vậy!” \c 59 \s1 Xưng Tội và Cứu Chuộc \q1 \v 1 Này! Tay Chúa Hằng Hữu không phải yếu đuối mà không cứu được, \q2 hay tai Ngài điếc mà không nghe được lời cầu nguyện. \q1 \v 2 Nhưng tội lỗi ngươi đã phân cách ngươi khỏi Đức Chúa Trời. \q2 Vì gian ác ngươi, Ngài đã quay mặt khỏi ngươi \q2 và sẽ không nghe tiếng ngươi nữa. \q1 \v 3 Bàn tay ngươi là tay của kẻ giết người, \q2 và ngón tay ngươi dính đầy tội ác. \q1 Môi ngươi đầy lời dối trá \q2 và miệng ngươi thốt ra điều thối nát. \q1 \v 4 Không còn ai quan tâm về công lý và sự chân thật. \q2 Tất cả đều tin vào việc hư không, lời dối trá. \q2 Chúng cưu mang điều ác, và đẻ ra tội trọng. \q1 \v 5 Chúng nó ấp trứng rắn, dệt màng nhện. \q2 Ai ăn phải trứng đó đều thiệt mạng, \q2 trứng nào dập nát lại nở ra rắn con. \q1 \v 6 Màng dệt chúng không thể làm trang phục, \q2 và không thể mặc thứ gì chúng làm ra. \q1 Tất cả việc làm của chúng đều đầy ắp tội ác, \q2 đôi tay chúng đầy những việc bạo tàn. \q1 \v 7 Chúng nhanh chân chạy vào đường tội ác, \q2 vội vã làm đổ máu vô tội. \q1 Chúng cứ nghĩ chuyện gian tà. \q2 Khốn khổ và hủy diệt luôn luôn theo chúng. \q1 \v 8 Chúng không biết tìm bình an nơi đâu \q2 hay ý nghĩa của chính trực và thiện lành là gì. \q1 Chúng mở những con đường cong quẹo riêng cho mình, \q2 ai đi trên các đường ấy chẳng bao giờ được bình an. \q1 \v 9 Vì thế, không có công lý giữa chúng ta \q2 và chúng ta không biết gì về đời sống công chính. \q1 Chúng ta đợi ánh sáng nhưng chỉ thấy bóng tối. \q2 Chúng ta mong cảnh tươi sáng nhưng chỉ bước đi trong tối tăm. \q1 \v 10 Chúng ta sờ soạng như người mù mò theo tường, \q2 cảm nhận đường đi của mình như người không mắt. \q1 Dù giữa trưa chói sáng, \q2 chúng ta vấp ngã như đi trong đem tối. \q1 Giữa những người sống \q2 mà chúng ta như người chết. \q1 \v 11 Chúng ta gầm gừ như gấu đói; \q2 chúng ta rên rỉ như bồ câu than khóc. \q1 Chúng ta trông đợi công lý, nhưng không bao giờ đến. \q2 Chúng ta mong sự cứu rỗi, nhưng nó ở quá xa. \q1 \v 12 Vì tội lỗi của chúng ta phạm quá nhiều trước mặt Đức Chúa Trời \q2 và tội lỗi chúng ta làm chứng nghịch chúng ta. \q1 Phải, chúng ta nhìn nhận tội ác mình. \q1 \v 13 Chúng ta biết mình đã phản nghịch và khước từ Chúa Hằng Hữu. \q2 Chúng ta đã lìa bỏ Đức Chúa Trời chúng ta. \q1 Chúng ta biết mình bất công và áp bức người khác thể nào, \q2 tâm trí chúng ta nghĩ và nói những lời dối gạt. \q1 \v 14 Tòa án của chúng ta đẩy lui công chính, \q2 và công bằng chẳng thấy nơi đâu. \q1 Chân lý vấp ngã trên đường phố, \q2 và sự ngay thẳng phải đứng ngoài vòng luật pháp. \q1 \v 15 Phải, chân lý không còn nữa, \q2 và bất cứ ai lìa bỏ việc ác sẽ bị tấn công. \q1 Chúa Hằng Hữu đã thấy và Ngài buồn lòng \q2 vì xã hội đầy dẫy bất công. \q1 \v 16 Chúa ngạc nhiên khi thấy không ai dám đứng ra \q2 để giúp người bị áp bức. \q1 Vì vậy, Chúa dùng cánh tay mạnh mẽ để cứu giúp, \q2 và tỏ ra sức công chính của Ngài. \q1 \v 17 Chúa khoác lên mình áo giáp công chính, \q2 và đội lên đầu mão cứu rỗi. \q1 Chúa mặc cho mình áo dài của sự báo thù \q2 và choàng lên người áo của lòng sốt sắng. \q1 \v 18 Chúa sẽ báo trả mỗi người tùy theo việc chúng làm. \q2 Cơn thịnh nộ của Chúa sẽ đổ trên những người chống đối. \q2 Chúa sẽ báo trả tất cả dù chúng ở tận cùng trái đất \q1 \v 19 Từ phương tây, người ta sẽ kính sợ Danh Chúa Hằng Hữu; \q2 từ phương đông, họ sẽ tôn vinh Ngài. \q1 Vì Ngài sẽ đến như dòng sông chảy xiết, \q2 và hơi thở của Chúa Hằng Hữu đẩy mạnh thêm. \b \q1 \v 20 “Đấng Cứu Chuộc sẽ đến Si-ôn \q2 để giải cứu những người thuộc về Gia-cốp \q2 là những ai lìa bỏ tội ác,” \q1 Chúa Hằng Hữu phán vậy. \p \v 21 Chúa Hằng Hữu phán: “Đây là giao ước Ta lập với họ, Thần Ta đang ở trên các con, lời Ta đã đặt vào lưỡi\f + \fr 59:21 \fr*\ft Nt miệng\ft*\f* các con sẽ mãi mãi tồn tại trên môi miệng các con và môi miệng con cháu, chắt chít của các con, từ bây giờ cho đến đời đời. Ta, Chúa Hằng Hữu, đã phán!” \c 60 \s1 Tương Lai Vinh Quang cho Giê-ru-sa-lem \q1 \v 1 “Hãy vùng dậy, Giê-ru-sa-lem! Hãy chiếu sáng cho mọi người nhìn thấy. \q2 Vì vinh quang của Chúa Hằng Hữu đã soi sáng ngươi. \q1 \v 2 Bóng tối dày đặc đang bao trùm các dân tộc trên đất, \q2 nhưng vinh quang của Chúa Hằng Hữu chiếu rọi và soi sáng trên ngươi. \q1 \v 3 Các dân tộc sẽ tìm đến ánh sáng ngươi; \q2 các vua hùng mạnh sẽ đến để nhìn ánh bình minh của ngươi. \b \q1 \v 4 Hãy ngước mắt nhìn quanh, vì mọi người đang kéo về với ngươi! \q2 Con trai ngươi đang đến từ phương xa; \q2 con gái ngươi sẽ được ẵm về. \q1 \v 5 Mắt ngươi sẽ rạng rỡ, \q2 và lòng ngươi sẽ rung lên với vui mừng, \q2 vì tất cả lái buôn sẽ đến với ngươi. \q1 Họ sẽ mang đến ngươi châu báu ngọc ngà từ các nước. \q1 \v 6 Đoàn lạc đà đông đảo sẽ kéo đến với ngươi, \q2 kể cả đoàn lạc đà từ xứ Ma-đi-an và Ê-pha. \q1 Tất cả dân cư Sê-ba sẽ cống hiến vàng và nhũ hương, \q2 họ sẽ đến thờ phượng Chúa Hằng Hữu. \q1 \v 7 Các bầy vật xứ Kê-đa cũng sẽ về tay ngươi, \q2 cả bầy dê đực xứ Nê-ba-giốt mà ngươi sẽ dâng trên bàn thờ Ta. \q1 Ta sẽ chấp nhận sinh tế của họ, \q2 và Ta sẽ làm cho Đền Thờ Ta đầy vinh quang rực rỡ. \b \q1 \v 8 Ta thấy ai đang bay như mây về Ít-ra-ên, \q2 như đàn bồ câu bay về tổ của mình? \q1 \v 9 Họ xuống tàu từ tận cùng trái đất, \q2 từ vùng đất trông đợi Ta, \q2 dẫn đầu là những tàu lớn của Ta-rê-si. \q1 Họ mang con trai ngươi về từ nơi xa xôi, \q2 cùng với bạc và vàng. \q1 Họ sẽ tôn vinh Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời ngươi, \q2 Đấng Thánh của Ít-ra-ên, \q2 vì Ta sẽ đề cao ngươi trước mặt các dân tộc. \b \q1 \v 10 Người nước ngoài sẽ xây lại các tường lũy ngươi, \q2 và vua\f + \fr 60:10 \fr*\ft Chính phủ\ft*\f* của họ sẽ phục vụ ngươi. \q1 Vì Ta đã đánh phạt ngươi trong cơn thịnh nộ, \q2 nhưng bây giờ Ta sẽ thương xót ngươi theo ân huệ\f + \fr 60:10 \fr*\ft Ctd ân phước\ft*\f* Ta. \q1 \v 11 Các cửa thành ngươi sẽ mở cả ngày đêm \q2 để tiếp nhận tài nguyên từ các dân tộc. \q1 Các vua\f + \fr 60:11 \fr*\ft Chính phủ\ft*\f* trên thế gian sẽ bị dẫn như phu tù \q2 trong đoàn diễu hành khải hoàn. \q1 \v 12 Những dân tộc nào không phục vụ ngươi \q2 sẽ bị diệt vong. \b \q1 \v 13 Vinh quang của Li-ban thuộc về ngươi— \q2 ngươi sẽ dùng gỗ tùng, bách, thông và gỗ quý— \q2 để trang hoàng nơi thánh Ta. \q1 Đền Thờ\f + \fr 60:13 \fr*\ft Ctd nơi Ta đặt chân\ft*\f* Ta sẽ đầy vinh quang! \q1 \v 14 Dòng dõi những người áp bức ngươi \q2 sẽ đến và cúi đầu trước ngươi. \q1 Những người khinh dể ngươi \q2 sẽ quỳ dưới chân ngươi. \q1 Ngươi sẽ được xưng là Thành của Chúa Hằng Hữu, \q2 là Si-ôn của Đấng Thánh Ít-ra-ên. \b \q1 \v 15 Xứ sở ngươi không còn bị khinh miệt và ghét bỏ \q2 đến nỗi không ai thèm đặt chân đến nữa. \q1 Ta sẽ cho ngươi uy nghiêm đời đời, \q2 ngươi sẽ làm nguồn vui cho nhiều thế hệ. \q1 \v 16 Các vua quyền lực và các quốc gia hùng cường \q2 sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu của ngươi, \q2 ngươi như một đứa trẻ bú sữa của bà hoàng. \q1 Ngươi sẽ biết rằng Ta, Chúa Hằng Hữu, \q2 là Chúa Cứu Thế ngươi và là Đấng Cứu Chuộc ngươi, \q2 là Chúa Toàn Năng của Gia-cốp. \q1 \v 17 Ta sẽ cho ngươi vàng thay đồng, \q2 bạc thay sắt, \q1 đồng thay gỗ, \q2 và sắt thay đá. \q1 Ta sẽ khiến sự bình an trong các lãnh đạo của ngươi \q2 và sự công chính trên người cai trị ngươi. \q1 \v 18 Đất nước ngươi sẽ không còn nghe chuyện áp bức, hung tàn; \q2 lãnh thổ ngươi không còn đổ nát, tiêu điều. \q1 Sự cứu rỗi sẽ bao quanh ngươi như tường thành, \q2 những ai bước vào sẽ đầy tiếng ca ngợi trên môi. \b \q1 \v 19 Ban ngày, ngươi sẽ không cần ánh sáng mặt trời, \q2 ban đêm cũng chẳng cần ánh trăng soi sáng, \q2 vì Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời ngươi sẽ là Nguồn Sáng vĩnh cửu của ngươi, \q1 Đức Chúa Trời ngươi sẽ là vinh quang của ngươi. \q1 \v 20 Mặt trời ngươi sẽ không lặn nữa; \q2 mặt trăng ngươi sẽ không còn khuyết. \q1 Vì Chúa Hằng Hữu sẽ là ánh sáng đời đời cho ngươi. \q2 Những ngày than khóc sầu thảm của ngươi sẽ chấm dứt. \q1 \v 21 Tất cả dân ngươi sẽ là người công chính. \q2 Họ sẽ thừa hưởng đất đai mãi mãi, \q1 vì họ là người do Ta sinh thành,\f + \fr 60:21 \fr*\ft Ctd là nhánh của cây Ta trồng\ft*\f* là tác phẩm của bàn tay Ta, \q2 họ sẽ làm vẻ vang cho Ta. \q1 \v 22 Một gia đình nhỏ bé nhất cũng sẽ sinh ra cả nghìn con cháu, \q2 một nhóm ít ỏi cũng sẽ trở nên một dân hùng mạnh. \q2 Vào đúng thời điểm, Ta, Chúa Hằng Hữu, sẽ thực hiện những điều đó.” \c 61 \s1 Tin Mừng Cứu Rỗi \q1 \v 1 Thần của Chúa Hằng Hữu Chí Cao ngự trên ta, \q2 vì Chúa đã xức dầu cho ta \q2 để rao truyền Phúc Âm cho người nghèo. \q1 Ngài sai ta đến để an ủi những tấm lòng tan vỡ, \q2 và công bố rằng những người bị giam cầm sẽ được phóng thích, \q2 cùng những người tù sẽ được tự do. \q1 \v 2 Ngài sai ta đến để báo cho những ai tang chế khóc than \q2 rằng năm đặc ân của Chúa Hằng Hữu đã đến, \q2 và là ngày báo thù của Đức Chúa Trời trên kẻ thù của họ. \q1 \v 3 Với những người buồn rầu ở Si-ôn, \q2 Ngài sẽ ban mão triều xinh đẹp thay tro bụi, \q1 ban dầu vui mừng thay cho tang chế, \q2 ban áo ca ngợi thay vì lòng sầu não. \q1 Trong sự công chính, họ sẽ như cây sồi vĩ đại \q2 được Chúa Hằng Hữu trồng vì vinh quang của Ngài. \q1 \v 4 Họ sẽ dựng lại những thành quách điêu tàn, \q2 sẽ tái thiết những lâu đài đổ nát. \q1 Họ sẽ trùng tu những thành \q2 đã bị bỏ hoang từ bao thế hệ. \q1 \v 5 Các người nước ngoài sẽ là đầy tớ các ngươi. \q2 Họ sẽ là người chăn các bầy gia súc của các ngươi \q2 cày cấy trên những ruộng đồng \q2 và trồng nho cho các ngươi. \q1 \v 6 Các ngươi sẽ được gọi là thầy tế lễ của Chúa Hằng Hữu, \q2 là người phục vụ của Đức Chúa Trời chúng ta. \q1 Các ngươi sẽ được hưởng tài sản phong phú của các nước \q2 và thu vinh quang rực rỡ của các dân. \q1 \v 7 Thay vì bị hổ thẹn và nhục nhã, \q2 các ngươi sẽ được vinh dự, thịnh vượng gấp đôi và vui mừng mãi mãi. \q1 Các ngươi sẽ hưởng sản nghiệp bội phần trong xứ \q2 và được vui mừng mãi mãi. \b \q1 \v 8 “Vì Ta, Chúa Hằng Hữu, yêu điều công chính, \q2 Ta ghét sự trộm cướp và gian tà. \q1 Ta sẽ thành tín ban thưởng dân Ta vì sự khốn khổ của chúng \q2 và Ta sẽ lập giao ước đời đời với chúng. \q1 \v 9 Dòng dõi chúng sẽ được công nhận \q2 và nổi tiếng giữa các dân tộc. \q1 Mọi người sẽ nhìn nhận rằng \q2 chúng là dân tộc được Chúa Hằng Hữu ban phước.” \q1 \v 10 Ta sẽ vô cùng mừng rỡ trong Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời ta! \q2 Vì Ngài đã mặc áo cứu rỗi cho ta, \q2 và phủ trên ta áo dài công chính. \q1 Ta như chú rể y phục chỉnh tề trong ngày cưới, \q2 như cô dâu trang sức ngọc ngà châu báu. \q1 \v 11 Chúa Hằng Hữu Chí Cao sẽ bày tỏ đức công chính của Ngài trên các dân tộc. \q2 Mọi người sẽ ngợi tôn Ngài! \q1 Sự công chính của Ngài sẽ như vườn tược làm cây cối nứt đọt, \q2 hạt giống nẩy mầm khắp mọi nơi. \c 62 \s1 Y-sai Cầu Nguyện cho Giê-ru-sa-lem \q1 \v 1 Vì ta yêu Si-ôn, \q2 nên ta sẽ không yên lặng. \q1 Vì lòng ta thương mến Giê-ru-sa-lem, \q2 nên ta không thể nghỉ yên. \q1 Ta không ngớt cầu thay cho nó \q2 cho đến khi nó tỏa ánh sáng công chính \q2 và vinh quang cứu rỗi rực lên như ngọn đuốc. \q1 \v 2 Các dân tộc sẽ thấy rõ đức công chính ngươi. \q2 Các lãnh đạo thế giới sẽ bị chói lòa bởi vinh quang ngươi. \q1 Và ngươi sẽ được gọi bằng tên mới \q2 do Chúa Hằng Hữu đặt cho. \q1 \v 3 Chúa Hằng Hữu đưa cao ngươi lên trong tay Ngài cho mọi người nhìn thấy— \q2 ngươi là vương miện rực rỡ của Đức Chúa Trời. \q1 \v 4 Ngươi sẽ chẳng còn bị gọi là “Thành Ruồng Bỏ” \q2 hay “Đất Hoang Vu” nữa. \q1 Tên mới của ngươi sẽ là “Thành của Đức Chúa Trời Vui Thích” \q2 và “Cô Dâu của Đức Chúa Trời,” \q2 vì Chúa Hằng Hữu vui thích ngươi \q2 và nhận ngươi làm cô dâu của Ngài. \q1 \v 5 Đàn con ngươi sẽ cam kết với ngươi, hỡi Giê-ru-sa-lem, \q2 như người trai trẻ cam kết cùng cô dâu của mình. \q1 Đức Chúa Trời sẽ vui mừng vì ngươi \q2 như chàng rể vui mừng vì cô dâu của mình. \q1 \v 6 Hỡi Giê-ru-sa-lem, ta đã đặt những người cầu thay trên tường lũy ngươi; \q2 họ sẽ cầu nguyện suốt ngày suốt đêm. \q1 Hỡi những người cầu thay,\f + \fr 62:6 \fr*\ft Nt những người nhắc nhở Chúa Hằng Hữu\ft*\f* đừng bao giờ nghỉ ngơi. \q1 \v 7 Đừng để Chúa Hằng Hữu nghỉ ngơi cho đến khi Ngài xong việc, \q2 cho đến khi lập Giê-ru-sa-lem và khiến cả đất đều ca ngợi nó. \q1 \v 8 Chúa Hằng Hữu đã thề bằng chính sức của Ngài với Giê-ru-sa-lem rằng: \q2 “Ta sẽ chẳng bao giờ nộp ngươi vào tay quân thù nữa. \q1 Chẳng bao giờ cho quân xâm lăng đến \q2 cướp thóc lúa và bình rượu mới. \q1 \v 9 Ngươi gieo trồng thóc lúa thì ngươi được hưởng hoa lợi, \q2 để ngợi tôn Chúa Hằng Hữu. \q1 Trong khuôn viên của Đền Thờ, \q2 ngươi sẽ uống rượu nho chính ngươi đã cất.” \b \q1 \v 10 Hãy đi ra các cổng thành! \q2 Hãy ban đường cho dân ta trở về. \q2 Hãy làm bằng các thông lộ; kéo bỏ các vầng đá chướng ngại; \q2 giương cao lá cờ để mọi dân tộc đều thấy. \q1 \v 11 Chúa Hằng Hữu đã gửi sứ điệp này khắp đất: \q2 “Hãy nói với con gái Si-ôn rằng: \q2 ‘Kìa, Đấng Cứu Rỗi ngươi đang ngự đến. \q2 Ngài mang theo phần thưởng cùng đến với Ngài.’” \q1 \v 12 Họ sẽ được gọi là “Dân Tộc Thánh” \q2 và “Dân Được Chuộc của Chúa Hằng Hữu.” \q1 Giê-ru-sa-lem sẽ mang danh là “Thành Mơ Ước” \q2 và “Thành Không Bị Ruồng Bỏ.” \c 63 \s1 Năm Cứu Chuộc \q1 \v 1 Ai đến từ Ê-đôm \q2 và từ thành Bốt-ra, \q2 mặc y phục rực rỡ màu đỏ thẫm? \q1 Ai trong chiếc áo vương bào \q2 đang tiến bước cách uy nghiêm, hùng dũng? \b \q1 “Ấy chính Ta, Chúa Hằng Hữu, tuyên báo sự cứu rỗi ngươi! \q2 Ấy là Ta, Chúa Hằng Hữu, Đấng có năng quyền để cứu rỗi.” \b \q1 \v 2 Sao áo Chúa đỏ rực, \q2 như áo người đạp nho trong bồn ép nho? \b \q1 \v 3 “Ta đã đạp nho một mình; \q2 không ai giúp đỡ. \q1 Ta đã đạp kẻ thù Ta trong cơn giận dữ, \q2 như thể chúng là những trái nho. \q1 Ta đã giẫm đạp chúng trong cơn thịnh nộ. \q2 Máu chúng đã làm bẩn áo Ta. \q1 \v 4 Ta đã định ngày báo ứng trong lòng, \q2 và năm cứu chuộc của Ta đã đến. \q1 \v 5 Ta ngạc nhiên khi thấy không ai dám đứng ra \q2 để giúp người bị áp bức. \q1 Vì vậy, Ta dùng chính cánh tay mạnh mẽ của Ta để cứu giúp, \q2 và biểu dương sức công chính của Ta. \q1 \v 6 Trong cơn thịnh nộ, Ta nghiền nát các dân vô đạo \q2 và khiến chúng lảo đảo rồi ngã gục xuống đất, \q2 đổ máu chúng ra trên đất.” \s1 Lòng Nhân Ái của Chúa \q1 \v 7 Tôi sẽ nói đến lòng thương xót vô biên của Chúa Hằng Hữu. \q2 Tôi sẽ ca ngợi Ngài vì những việc Ngài làm. \q1 Tôi sẽ hân hoan trong sự nhân từ vĩ đại của Ngài đối với Ít-ra-ên, \q2 tùy theo lòng thương xót và nhân ái vô hạn của Ngài. \q1 \v 8 Chúa phán: “Chúng là dân Ta. \q2 Chắc chắn chúng không bao giờ phản nghịch Ta nữa.” \q2 Và Ngài là Chúa Cứu Thế của họ. \q1 \v 9 Trong khi họ gặp khốn khổ, Chúa cũng gặp khốn khổ, \q2 và thiên sứ của Chúa đã giải cứu họ. \q1 Chúa lấy tình yêu và lòng thương xót mà chuộc họ. \q2 Chúa đã ẵm bồng và mang lấy họ qua bao năm tháng xa xưa. \q1 \v 10 Nhưng họ đã nổi loạn chống nghịch Chúa \q2 và làm cho Thánh Linh của Ngài buồn rầu. \q1 Vì vậy, Chúa trở thành thù địch \q2 và chiến đấu nghịch lại họ. \b \q1 \v 11 Lúc ấy, họ mới nhớ lại quá khứ, \q2 nhớ Môi-se đã dẫn dân Ngài ra khỏi Ai Cập. \q1 Họ kêu khóc: “Đấng đã đem Ít-ra-ên ra khỏi biển, \q2 cùng Môi-se, người chăn bầy ở đâu? \q1 Đấng đã đặt Thánh Linh Ngài \q2 giữa vòng dân Ngài ở đâu? \q1 \v 12 Đấng đã thể hiện quyền năng của Ngài \q2 khi Môi-se đưa tay lên— \q1 tức Đấng đã rẽ nước trước mặt họ, \q2 tạo cho Ngài một Danh đời đời ở đâu? \q1 \v 13 Đấng đã dìu dắt họ đi qua đáy biển ở đâu? \q2 Họ như ngựa phi trên hoang mạc \q2 không bao giờ vấp ngã. \q1 \v 14 Như bầy gia súc được đi về thung lũng, \q2 Thần Linh của Chúa Hằng Hữu đã cho họ an nghỉ. \q1 Chúa đã dẫn dắt dân Ngài, lạy Chúa Hằng Hữu, \q2 để Danh Chúa được vinh quang.” \s1 Lời Cầu Nguyện Ăn Năn \q1 \v 15 Lạy Chúa Hằng Hữu, xin nhìn xuống từ trời; \q2 từ nơi ngự thánh, từ ngôi vinh quang Ngài, xin nhìn chúng con. \q1 Nhiệt tình và quyền năng Chúa ở đâu? \q2 Lòng ưu ái và thương xót của Chúa bị ngăn lại hay sao? \q1 \v 16 Thật, Chúa là Cha chúng con! \q2 Dù Áp-ra-ham và Ít-ra-ên không thừa nhận chúng con, \q2 Chúa Hằng Hữu, Ngài vẫn là Cha chúng con. \q2 Ngài là Đấng Cứu Chuộc chúng con từ xa xưa. \q1 \v 17 Lạy Chúa Hằng Hữu, sao Chúa nỡ để chúng con tách xa đường lối Ngài? \q2 Tại sao Chúa để lòng chúng con chai lì đến nỗi mất lòng kính sợ Ngài? \q1 Xin Chúa trở lại và giúp chúng con, vì chúng con là đầy tớ Ngài, \q2 là những đại tộc thuộc quyền sở hữu của Ngài \q1 \v 18 Dân thánh của Ngài mới sở nơi đền thánh này chưa bao lâu, \q2 mà quân thù đã dày xéo lên đền thánh rồi. \q1 \v 19 Đôi khi, dường như chúng con chưa hề thuộc về Ngài, \q2 như thể chúng con chưa bao giờ được biết như một dân tộc của Ngài. \c 64 \s1 Dân Chúa Cầu Nguyện \q1 \v 1 Ôi, ước gì Chúa xé các tầng trời và ngự xuống! \q2 Và núi non đều tan chảy trước mặt Ngài!\f + \fr 64:1 \fr*\ft Thánh Kinh Hê-bơ-rơ ghi câu 64:1 ở cuối chương 63\ft*\f* \q1 \v 2 Như lửa đốt củi khô, \q2 như nước đun sôi, \q1 hầu cho người thù nghịch biết Danh Ngài \q2 và các dân tộc run rẩy trước mặt Ngài. \q1 \v 3 Ngày xa xưa khi Ngài ngự xuống, \q2 Ngài đã làm những việc đáng sợ mà chúng con không trông mong. \q2 Ôi, các núi đều tan chảy trước mặt Ngài. \q1 \v 4 Từ khi thế gian mới bắt đầu, \q2 tai chưa hề nghe \q2 và mắt chưa hề thấy thần nào ngoài Đức Chúa Trời, \q2 là Đấng hành động thay cho những ai trông đợi Ngài! \q1 \v 5 Chúa đón tiếp người vui lòng làm điều công chính, \q2 và những người tin kính đi trong đường lối Ngài. \q1 Nhưng Chúa nổi giận cùng chúng con, \q2 vì chúng con đã phạm tội bất tín. \q1 Chúng con cứ liên tục phạm tội; \q2 làm sao chúng con được cứu? \q1 \v 6 Chúng con tất cả đều gian ác và xấu xa. \q2 Khi chúng con bày tỏ công chính mình, \q2 chúng chẳng khác gì miếng giẻ, bẩn thỉu. \q1 Chúng con tất cả đều héo rụng như lá vàng mùa thu, \q2 tội ác chúng con như gió đùa mình đi. \q1 \v 7 Thế mà chẳng ai kêu cầu Danh Ngài \q2 hay nài nỉ Ngài thương xót. \q1 Vì thế, Chúa đã ngoảnh mặt khước từ chúng con, \q2 bỏ mặc chúng con tiêu tan trong tội ác mình. \b \q1 \v 8 Lạy Chúa Hằng Hữu, dù vậy, Ngài là Cha chúng con! \q2 Chúng con là đất sét, và Ngài là Thợ Gốm. \q2 Chúng con tất cả là công trình của tay Ngài. \q1 \v 9 Lạy Chúa Hằng Hữu, xin đừng giận chúng con. \q2 Cầu xin Ngài đừng nhớ tội ác chúng con mãi mãi. \q1 Xin Chúa đoái xem, chúng con kêu cầu, \q2 vì tất cả chúng con đều là con dân Ngài. \q1 \v 10 Các thành thánh của Ngài bị tàn phá. \q2 Si-ôn trở thành hoang mạc; \q2 phải, Giê-ru-sa-lem hoang vắng tiêu điều. \q1 \v 11 Đền Thờ thánh nguy nga tráng lệ, \q2 là nơi tổ phụ chúng con thờ phượng Chúa, \q1 đã bị thiêu hủy rồi, \q2 và tất cả những gì xinh đẹp đều sụp đổ, tan tành. \q1 \v 12 Lạy Chúa Hằng Hữu, đã đến nỗi này, Chúa vẫn từ chối cứu giúp chúng con sao? \q2 Có lẽ nào Ngài cứ nín lặng và hình phạt chúng con? \c 65 \s1 Sự Phán Xét và Ơn Cứu Rỗi \p \v 1 Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Ta đã sẵn sàng để đáp lời, nhưng không ai cầu xin Ta. \q2 Ta đã sẵn sàng để gặp, nhưng không ai tìm kiếm Ta. \q2 Ta đã phán với một dân tộc chưa từng cầu khẩn Danh Ta rằng: \q2 ‘Ta đây! Có Ta đây!’ \q1 \v 2 Suốt ngày Ta mở rộng vòng tay để chờ đón dân phản loạn. \q2 Nhưng chúng cứ đi theo con đường gian ác \q2 và cưu mang ý tưởng gian tà. \q1 \v 3 Suốt ngày chúng công khai phỉ báng Ta ngay trước mặt Ta, \q2 dâng tế lễ cho thần tượng trong vườn, \q2 đốt hương cho tà linh trên tường gạch. \q1 \v 4 Ban đêm, chúng ra ngồi tĩnh tâm ngoài nghĩa địa, \q2 thờ phượng những người chết. \q1 Chúng ăn thịt heo tế thần \q2 và nấu các món ăn gớm ghiếc trong nồi. \q1 \v 5 Thế mà chúng còn lên mặt bảo nhau: \q2 ‘Đứng xa ra! Đừng lại gần ta, ngươi sẽ làm ô uế ta! \q2 Vì ta thánh hơn ngươi!’ \q2 Chúng như mùi hôi thối trong mũi Ta, \q2 một mùi gay gắt không bao giờ đi khỏi. \b \q1 \v 6 Đây, Ta đã ra sắc lệnh, viết rõ từng chữ trước mặt Ta: \q2 Ta sẽ không nín lặng nữa. \q2 Ta sẽ báo trả chúng đích đáng! \q2 Phải, Ta sẽ báo trả chúng đích đáng,\f + \fr 65:6 \fr*\ft Nt báo trả vào ngực chúng\ft*\f* \q1 \v 7 không những vì tội ác chúng \q2 mà còn vì tội ác của tổ phụ chúng. \q1 Vì chúng còn đốt hương tế thần trên núi \q2 và phỉ báng Ta trên các ngọn đồi. \q1 Ta sẽ báo trả chúng đích đáng,”\f + \fr 65:7 \fr*\ft Nt báo trả vào ngực chúng\ft*\f* \q2 Chúa Hằng Hữu phán vậy. \p \v 8 Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Tuy nhiên, Ta không tuyệt diệt tất cả chúng. \q2 Cũng như những trái nho tốt giữa một chùm nho hư thối \q2 (có người nói: ‘Đừng vứt cả chùm nho vì có những trái còn tốt!’), \q2 vì vậy Ta sẽ không tiêu diệt tất cả người Ít-ra-ên. \q1 Vì Ta vẫn còn các đầy tớ thật tại đó. \q1 \v 9 Ta sẽ bảo tồn dân còn sót lại của nhà Gia-cốp \q2 và của Giu-đa để sở hữu đất Ta. \q1 Những người Ta tuyển chọn sẽ được thừa kế đất, \q2 và đầy tớ Ta sẽ sống ở đó. \q1 \v 10 Đồng bằng Sa-rôn sẽ lại đầy các bầy gia súc \q2 cho dân Ta, những người đã tìm kiếm Ta, \q2 và thung lũng A-cô cũng sẽ là nơi chăn nuôi bò, chiên. \b \q1 \v 11 Nhưng vì những người còn lại đã bỏ Chúa Hằng Hữu \q2 và quên Đền Thờ\f + \fr 65:11 \fr*\ft Nt núi thánh\ft*\f* Ngài, \q1 và vì ngươi đã dọn bàn để thờ thần Vận May \q2 cùng dâng rượu pha lên thần Số Mệnh, \q1 \v 12 nên bây giờ Ta sẽ ‘dành riêng’ ngươi cho lưỡi gươm. \q2 Tất cả các ngươi sẽ phải cúi đầu trước đao phủ. \q2 Vì khi Ta gọi, các ngươi không trả lời. \q2 Khi Ta phán, các ngươi không lắng nghe. \q2 Các ngươi tiếp tục làm những điều gian ác—ngay trước mắt Ta— \q2 và các ngươi chọn những việc Ta không bằng lòng.” \p \v 13 Vì thế, đây là điều Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: \q1 “Đầy tớ Ta sẽ ăn, \q2 còn các ngươi sẽ bị bỏ đói. \q1 Đầy tớ Ta sẽ uống, \q2 còn các ngươi sẽ phải khát. \q1 Đầy tớ Ta sẽ hân hoan, \q2 còn các ngươi sẽ buồn rầu và hổ thẹn. \q1 \v 14 Đầy tớ Ta sẽ ca hát vui mừng, \q2 còn các ngươi sẽ khóc lóc thảm sầu và tuyệt vọng. \q1 \v 15 Tên các ngươi sẽ bị nguyền rủa giữa dân Ta, \q2 vì Chúa Hằng Hữu Chí Cao sẽ tiêu diệt các ngươi \q2 còn các đầy tớ thật của Chúa sẽ được đặt tên mới. \q1 \v 16 Vì vậy, những ai cầu phước hay thề nguyện \q2 sẽ nhân danh Đức Chúa Trời chân thật mà làm điều ấy. \q1 Vì Ta sẽ để cơn giận của Ta sang một bên \q2 và không nhớ đến tội ác những ngày trước nữa.” \q1 \v 17 “Kìa! Ta đang sáng tạo trời mới và đất mới, \q2 đến nỗi không ai còn tưởng nhớ trời cũ và đất cũ nữa. \q1 \v 18 Hãy mừng rỡ; hân hoan mãi mãi trong việc Ta sáng tạo! \q2 Và kìa! Ta sẽ tạo dựng Giê-ru-sa-lem như là nơi phước hạnh. \q2 Dân cư của nó sẽ là nguồn vui. \q1 \v 19 Ta sẽ hân hoan vì Giê-ru-sa-lem \q2 và vui thích vì dân Ta. \q1 Tiếng than khóc và kêu la \q2 sẽ không còn được nghe nữa. \b \q1 \v 20 Nơi đây, sẽ không có trẻ con chết yểu. \q2 Không có người chết trước khi được hưởng trọn đời sống mình. \q2 Người chết lúc trăm tuổi vẫn là chết trẻ! \q1 Chỉ những người bị nguyền rủa mới chết lúc trăm tuổi! \q1 \v 21 Trong những ngày đó, dân cư sẽ sống trong nhà họ xây \q2 và ăn trái trong chính vườn nho của họ. \q1 \v 22 Những kẻ xâm lược sẽ không chiếm nhà của họ, \q2 không tịch thu các vườn nho của họ như ngày xưa. \q1 Vì tuổi thọ dân Ta sẽ như tuổi của cây, \q2 và những người Ta lựa chọn sẽ được hưởng công việc của tay mình. \q1 \v 23 Họ sẽ không nhọc công vô ích, \q2 và con cái họ sẽ không chịu số phận bất hạnh nữa. \q1 Vì họ là dân được Chúa Hằng Hữu ban phước \q2 và con cháu họ cũng sẽ được ban phước như vậy. \q1 \v 24 Ta sẽ nhậm lời họ trước khi kêu cầu Ta. \q2 Trong khi họ đang nói về những nhu cầu của mình, \q2 Ta đã nghe và trả lời sự cầu xin của họ! \q1 \v 25 Sói và chiên con sẽ ăn chung. \q2 Sư tử ăn cỏ khô như bò. \q2 Còn rắn thì ăn bụi đất.\f + \fr 65:25 \fr*\ft Ctd rắn mổ bụi đất thay vì mổ người (Nt thực phẩm của rắn là bụi đất)\ft*\f* \q2 Trong những ngày đó, sẽ không có ai phải chịu đau đớn hay bị hủy phá trên núi thánh của Ta. \q2 Ta, Chúa Hằng Hữu đã phán vậy!” \c 66 \p \v 1 Đây là lời Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Trời là ngai Ta, \q2 và đất là bệ chân Ta. \q1 Các ngươi có thể xây Đền Thờ nào tốt như vậy không? \q2 Các ngươi có thể xây cho Ta một nơi ngự như thế chăng? \q1 \v 2 Tay Ta đã sáng tạo trời đất; \q2 trời đất và mọi vật trong đó đều thuộc về Ta. \q1 Ta, Chúa Hằng Hữu, đã phán vậy!” \b \q1 “Ta sẽ ban phước cho những ai biết hạ mình và có lòng thống hối, \q2 họ nghe lời Ta phán mà run sợ. \q1 \v 3 Còn những ai chọn đường riêng mình— \q2 vui thích trong tội ác ghê tởm của mình— \q2 thì của lễ của chúng sẽ không được chấp nhận. \q1 Khi con người dâng tế một con bò, \q2 chẳng khác gì giết một người để tế. \q1 Khi chúng tế một con chiên, \q2 giống như chúng tế một con chó! \q1 Khi chúng dâng lễ vật chay, \q2 khác nào chúng dâng máu heo. \q1 Khi chúng xông trầm hương, \q2 cũng như chúng đang dâng cho thần tượng. \q1 \v 4 Ta sẽ giáng tai họa kinh khiếp trên chúng, \q2 đem đến cho chúng tất cả những gì chúng sợ. \q1 Vì khi Ta gọi, chúng không trả lời. \q2 Khi Ta phán, chúng không lắng nghe. \q1 Chúng tiếp tục làm ác ngay trước mắt Ta, \q2 và chọn những việc Ta không bằng lòng.” \q1 \v 5 Hãy nghe sứ điệp này từ Chúa Hằng Hữu, \q2 tất cả những người nghe lời Ngài đều run sợ: \q1 “Anh em các con ghét các con, \q2 khai trừ các con vì Danh Ta. \q1 Chúng mỉa mai: ‘Cứ tôn vinh Chúa Hằng Hữu! \q2 Hãy vui mừng trong Chúa!’ \q2 Nhưng chúng sẽ bị sỉ nhục đắng cay. \q1 \v 6 Tại sao cả thành đều xôn xao, náo loạn? \q2 Tại sao có tiếng vang trong Đền Thờ? \q2 Đó là tiếng phán của Chúa Hằng Hữu! \q2 Ngài đang báo trả những người thù nghịch. \b \q1 \v 7 Trước khi chuyển bụng, Giê-ru-sa-lem đã sinh, \q2 sinh một con trai. \q1 \v 8 Có bao giờ người ta thấy việc lạ này không? \q2 Có bao giờ nghe những việc kỳ diệu như thế không? \q2 Có quốc gia nào chỉ trong một ngày mà được hình thành? \q2 Có dân tộc nào được sinh ra chỉ trong chốc lát? \q1 Nhưng khi Si-ôn bắt đầu chuyển dạ, \q2 con cái nó sẽ được sinh ra. \q1 \v 9 Có khi nào Ta đưa dân tộc này đến thời điểm sinh nở \q2 mà lại không cho sinh ra không?” Chúa Hằng Hữu hỏi. \q1 “Không! Ta không bao giờ ngăn trở dân tộc này được sinh nở,” \q2 Đức Chúa Trời ngươi phán vậy. \b \q1 \v 10 “Hãy hân hoan với Giê-ru-sa-lem! \q2 Hãy vui với nó, hỡi những ai yêu thương nó, \q2 hỡi những ai từng than khóc nó. \q1 \v 11 Hãy tận hưởng vinh quang nó \q2 như đứa con vui thích và thưởng thức sữa mẹ.” \b \q1 \v 12 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q2 “Ta sẽ cho Giê-ru-sa-lem an bình và thịnh vượng như dòng sông tuôn tràn. \q2 Của cải châu báu của các dân tộc nước ngoài sẽ đổ về đây. \q1 Đàn con nó sẽ được bú mớm nâng niu, \q2 được ẵm trên tay, được ngồi chơi trong lòng mẹ. \q1 \v 13 Ta sẽ an ủi các con tại Giê-ru-sa-lem \q2 như mẹ an ủi con của mình.” \b \q1 \v 14 Khi các ngươi nhìn thấy những điều này, lòng các ngươi sẽ mừng rỡ. \q2 Các ngươi sẽ được sum suê như cỏ! \q1 Mọi người sẽ thấy cánh tay của Chúa Hằng Hữu phù hộ đầy tớ Ngài \q2 và thấy cơn giận của Ngài chống trả người thù nghịch. \q1 \v 15 Kìa, Chúa Hằng Hữu sẽ ngự đến giữa ngọn lửa hừng, \q2 chiến xa của Ngài gầm như bão táp. \q1 Chúa mang theo hình phạt trong cơn thịnh nộ dữ dội \q2 và lời quở trách của Ngài như lửa bốc cháy. \q1 \v 16 Chúa Hằng Hữu sẽ hình phạt dân trên đất bằng ngọn lửa \q2 và lưỡi gươm của Ngài. \q1 Ngài sẽ xét xử mọi xác thịt \q2 và vô số người bị chết. \p \v 17 “Những người ‘hiến dâng’ và ‘tẩy uế’ mình trong vườn thánh với thần tượng của nó ngay giữa vườn—những người ăn thịt heo, thịt chuột, và các loài thịt ô uế—sẽ thấy ngày tận số kinh hoàng,” Chúa Hằng Hữu phán vậy. \p \v 18 “Ta thấy rõ những việc chúng làm, và Ta biết những tư tưởng thầm kín của chúng. Vì thế Ta sẽ tập họp tất cả các nước và các dân, rồi chúng sẽ thấy vinh quang Ta. \v 19 Ta sẽ thực hiện một phép lạ giữa chúng. Ta sẽ sai những người còn sống sót làm sứ giả đi đến các dân tộc—Ta-rê-si, Phút, và Lút (là dân nổi tiếng về bắn cung), Tu-banh và Gia-van, cùng tất cả dân hải đảo bên kia đại dương, là nơi chưa nghe đến Ta hay chưa thấy vinh quang Ta. Tại đó họ sẽ công bố vinh quang Ta cho các dân tộc đó. \v 20 Họ sẽ đem dân còn sót của các con trở về từ mỗi nước. Họ sẽ mang dân sót lại đến núi thánh Ta tại Giê-ru-sa-lem như tế lễ dâng lên Chúa Hằng Hữu. Họ sẽ cưỡi trên ngựa, chiến xa, kiệu, la, và lạc đà,” Chúa Hằng Hữu phán. \v 21 “Và Ta sẽ đặt một số người trong họ làm thầy tế lễ và người Lê-vi. Ta, Chúa Hăng Hữu đã phán vậy! \q1 \v 22 Như trời mới và đất mới Ta sáng tạo sẽ còn mãi mãi, \q2 các con cũng sẽ đời đời làm dân Ta, \q2 và danh các con không bao giờ bị biến mất,” \q1 Chúa Hằng Hữu phán. \q1 \v 23 “Cả nhân loại sẽ đến thờ phượng Ta \q2 từ tuần lễ này sang tuần lễ khác, \q2 từ tháng nọ qua tháng kia. \q1 \v 24 Khi ra ngoài thành, họ sẽ thấy \q2 xác chết của những kẻ phản nghịch chống lại Ta. \q1 Sâu bọ trong xác chúng không bao giờ chết, \q2 và lửa đoán phạt chúng không bao giờ tắt. \q1 Những ai đi ngang qua \q2 nhìn thấy đều ghê tởm.”