\id AMO - Biblica® Open Vietnamese Contemporary Bible 2015 (Biblica® Thiên Ban Kinh Thánh Hiện Đại) \ide UTF-8 \h A-mốt \toc1 A-mốt \toc2 A-mốt \toc3 Amốt \mt1 A-mốt \c 1 \p \v 1 Sứ điệp này được ban cho A-mốt, một người chăn chiên từ Thê-cô-a thuộc Giu-đa. Ông thấy khải tượng này hai năm trước cơn động đất, khi Ô-xia là vua Giu-đa và Giê-rô-bô-am II, con Giô-ách, làm vua Ít-ra-ên. \p \v 2 Đây là điều ông đã thấy và nghe: \q1 “Tiếng của Chúa Hằng Hữu sẽ gầm vang từ Si-ôn \q2 và trổi tiếng từ Giê-ru-sa-lem! \q1 Các đồng cỏ xanh tươi của người chăn sẽ khô héo; \q2 đồng cỏ trên Núi Cát-mên sẽ khô cằn và chết.” \s1 Đức Chúa Trời Phán Xét Các Nước Láng Giềng của Ít-ra-ên \q1 \v 3 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \b \q1 “Người Đa-mách phạm tội quá nhiều, \q2 nên Ta phải trừng phạt, không dung thứ được nữa! \q1 Chúng đã đánh dân Ta tại Ga-la-át \q2 như lúa bị đập bằng cây sắt. \q1 \v 4 Vì thế, Ta sẽ giáng lửa xuống cung điện của Vua Ha-xa-ên \q2 và các chiến lũy của Vua Bên Ha-đát sẽ bị hủy diệt. \q1 \v 5 Ta sẽ bẻ gãy then gài cổng thành Đa-mách \q2 và Ta sẽ tàn sát dân cư tại Thung Lũng A-ven. \q1 Ta sẽ diệt kẻ cai trị ở thành Bết Ê-đen, \q2 và người A-ram sẽ bị dẫn đi như tù nhân qua xứ Ki-rơ,” \q2 Chúa Hằng Hữu phán vậy. \q1 \v 6 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \b \q1 “Dân tộc Ga-xa phạm tội quá nhiều, \q2 nên Ta phải trừng phạt, không dung thứ được nữa! \q1 Chúng đã đưa cả làng đi lưu đày, \q2 bán họ cho người Ê-đôm làm nô lệ. \q1 \v 7 Vì thế, Ta sẽ giáng lửa xuống các tường thành Ga-xa, \q2 và thiêu hủy các đền đài chiến lũy kiên cố. \q1 \v 8 Người Ách-đốt sẽ bị tàn sát \q2 và tiêu diệt vua của Ách-ca-lôn. \q1 Ta sẽ tấn công thành Éc-rôn, \q2 người Phi-li-tin còn sót cũng bị giết hết,” \q2 Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán vậy. \p \v 9 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Dân tộc Ty-rơ phạm tội quá nhiều, \q2 nên Ta phải trừng phạt, không dung thứ được nữa! \q1 Chúng bội ước tình anh em với Ít-ra-ên, \q2 đã đem cả đoàn phu tù bán cho người Ê-đôm làm nô lệ. \q1 \v 10 Vì thế, Ta sẽ giáng lửa xuống các tường thành Ty-rơ, \q2 và các chiến lũy cũng sẽ bị hủy diệt.” \p \v 11 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Dân tộc Ê-đôm phạm tội quá nhiều, \q2 nên Ta phải trừng phạt, không dung thứ được nữa! \q1 Chúng đã nhẫn tâm tuốt gươm đuổi đánh Ít-ra-ên, anh em mình, \q2 không tỏ chút thương xót. \q1 Chúng để lòng thù hận dày vò \q2 và nuôi lòng căm hờn mãi mãi. \q1 \v 12 Vì thế, Ta sẽ giáng lửa trên Thê-man, \q2 và các chiến lũy của Bốt-ra cũng sẽ bị thiêu hủy.” \p \v 13 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Dân tộc Am-môn phạm tội quá nhiều, \q2 nên Ta phải trừng phạt, không dung thứ được nữa! \q1 Khi chúng tấn công Ga-la-át để nới rộng biên giới mình, \q2 chúng đã dùng gươm mổ bụng các đàn bà có thai. \q1 \v 14 Vì thế, Ta sẽ giáng lửa trên các tường thành Ráp-ba, \q2 và các chiến lũy sẽ bị tiêu diệt. \q1 Quân thù sẽ đến giữa tiếng hò hét xung phong, \q2 như một trận gió lốc giữa ngày bão lớn. \q1 \v 15 Vua và các hoàng tử của chúng sẽ cùng nhau bị lưu đày,” \q2 Chúa Hằng Hữu phán vậy. \c 2 \p \v 1 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Dân tộc Mô-áp phạm tội quá nhiều, \q2 nên Ta phải trừng phạt, không dung thứ được nữa! \q1 Chúng đã đào mả các vua của Ê-đôm \q2 rồi đốt thành tro. \q1 \v 2 Vì vậy Ta sẽ giáng lửa trên xứ Mô-áp, \q2 và các chiến lũy của Kê-ri-giốt sẽ bị tiêu diệt. \q1 Dân chúng sẽ bị ngã giữa tiếng ồn trong trận chiến, \q2 khi các chiến sĩ hò hét và thổi kèn thúc quân. \q1 \v 3 Ta sẽ diệt vua của chúng \q2 và tàn sát tất cả hoàng tử,” \q2 Chúa Hằng Hữu phán vậy. \s1 Đức Chúa Trời Đoán Phạt Giu-đa và Ít-ra-ên \q1 \v 4 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \b \q1 “Dân tộc Giu-đa phạm tội quá nhiều, \q2 nên Ta phải trừng phạt, không dung thứ được nữa! \q1 Chúng đã từ khước sự dạy bảo của Chúa Hằng Hữu, \q2 và không vâng theo sắc lệnh Ngài. \q1 Chúng lầm đường lạc lối \q2 vì những tà thần mà tổ phụ chúng đã thờ lạy. \q1 \v 5 Vì vậy Ta sẽ giáng lửa trên Giu-đa, \q2 và các chiến lũy của Giê-ru-sa-lem sẽ bị thiêu hủy.” \p \v 6 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Dân tộc Ít-ra-ên phạm tội quá nhiều, \q2 nên Ta phải trừng phạt, không dung thứ được nữa! \q1 Chúng bán người chính trực lấy bạc \q2 và bán người khốn cùng vì một đôi dép. \q1 \v 7 Chúng đạp đầu người yếu thế vào bụi đất, \q2 và xua đuổi những người hiền từ bị áp bức. \q1 Cả cha và con cùng ăn nằm với một người đàn bà, \q2 làm ô Danh Thánh Ta. \q1 \v 8 Chúng nằm ngủ bên các bàn thờ, \q2 trên quần áo mà người túng ngặt đem cầm cố.\f + \fr 2:8 \fr*\ft Theo \+xt Xuất 22:26-27\+xt*, Chúa phán phải trả áo xống người lân cận đem cầm cố trước khi mặt trời lặn, vì người nghèo khổ thời xưa chỉ có một manh áo che thân, nếu không trả lại họ lấy gì mà ngủ\ft*\f* \q1 Trong nhà của Đức Chúa Trời, \q2 chúng uống rượu mua bằng tiền bất chính. \q1 \v 9 Nhưng trước mắt dân Ta, \q2 Ta đã tiêu diệt người A-mô-rít, \q1 dù dân này cao như cây bá hương \q2 và mạnh như cây sồi. \q1 Ta đã hái hết trái trên cành \q2 và đào hết rễ của chúng lên. \q1 \v 10 Chính Ta đã đem các ngươi ra khỏi Ai Cập \q2 và dắt các ngươi bốn mươi năm trong hoang mạc, \q2 nên các ngươi có thể chiếm đất của A-mô-rít. \q1 \v 11 Ta đã dấy lên một số tiên tri giữa vòng con trai các ngươi, \q2 và một số khác làm người Na-xi-rê.\f + \fr 2:11 \fr*\ft Người biệt riêng cho Chúa và tuyệt đối không uống rượu, ăn nho hoặc cắt tóc (xin xem Dân Số 6)\ft*\f* \q1 Lẽ nào ngươi từ chối điều này, hỡi Ít-ra-ên, dân Ta?” \q2 Chúa Hằng Hữu hỏi. \q1 \v 12 “Nhưng các ngươi gây cho người Na-xi-rê phạm tội bằng cách ép họ uống rượu, \q2 ngươi còn ra lệnh cho các tiên tri: ‘Im đi, đừng nói nữa!’ \q1 \v 13 Vì vậy, Ta sẽ đè bẹp các ngươi, \q2 như bánh xe nghiền mạnh khi chở đầy lúa. \q1 \v 14 Người chạy nhanh nhất trong các ngươi cũng không thoát. \q2 Người mạnh nhất giữa vòng các ngươi cũng phải kiệt sức. \q2 Ngay cả các dũng sĩ cũng không thể nào cứu được mình. \q1 \v 15 Người bắn tên cũng không đứng nổi. \q2 Người nhanh nhẹn nhất cũng không kịp thoát. \q2 Ngay cả kỵ binh cũng không cứu nổi chính mình. \q1 \v 16 Trong ngày ấy những kẻ can trường nhất trong quân đội \q2 cũng phải tháo bỏ binh khí và chạy tìm đường sống,” \q2 Chúa Hằng Hữu phán vậy. \c 3 \p \v 1 Hãy lắng nghe sứ điệp của Chúa Hằng Hữu lên án các ngươi, hỡi dân tộc Ít-ra-ên và Giu-đa—nghịch cùng toàn thể gia tộc mà Ta đã giải cứu khỏi Ai Cập: \q1 \v 2 “Từ giữa vòng các gia tộc trên đất, \q2 Ta chỉ chọn\f + \fr 3:2 \fr*\ft Nt biết\ft*\f* các ngươi. \q1 Đó là tại sao Ta phải hình phạt các ngươi \q2 về tất cả tội lỗi của các ngươi.” \s1 Lời Chứng Nghịch Cùng Tội Lỗi Ít-ra-ên \q1 \v 3 Làm sao hai người có thể cùng đi với nhau được \q2 nếu không đồng ý đi chung? \q1 \v 4 Có sư tử nào gầm thét trong rừng \q2 khi không có mồi? \q1 Có sư tử con nào gầm gừ trong hang \q2 mà không bắt được gì chăng? \q1 \v 5 Có con chim nào sa bẫy dưới đất \q2 mà bẫy lưới chưa giăng? \q1 Có cái bẫy nào tự nhiên sập \q2 mà không có gì sa vào? \q1 \v 6 Khi kèn đã thổi vang trong thành \q2 mà dân chẳng sợ sao? \q1 Tai vạ nào xảy ra trong thành \q2 nếu Chúa Hằng Hữu không gây ra? \b \q1 \v 7 Cũng vậy, Chúa Hằng Hữu Chí Cao không làm một việc gì \q2 mà không tiết lộ cho các đầy tớ Ngài là các tiên tri. \b \q1 \v 8 Sư tử đã gầm thét— \q2 có ai không sợ chăng? \q1 Chúa Hằng Hữu Chí Cao đã phán dạy— \q2 thì ai dám khước từ công bố sứ điệp Ngài? \q1 \v 9 Hãy loan báo đến các lãnh đạo của Ách-đốt \q2 và đến người cao trọng của Ai Cập: \q1 “Hãy tụ họp quanh các núi Sa-ma-ri, \q2 và chứng kiến sự hỗn loạn và đàn áp tại Ít-ra-ên.” \b \q1 \v 10 Chúa Hằng Hữu phán: \q2 “Dân Ta không còn biết làm điều phải. \q1 Các đền đài của chúng chất đầy của cải \q2 mà chúng đã lấy trộm và cướp bóc.” \q1 \v 11 Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: “Vì thế, \q2 quân thù sẽ tràn đến! \q1 Nó sẽ bao vây chúng và triệt hạ các đồn lũy. \q2 Rồi nó sẽ cướp phá những đền đài của chúng.” \p \v 12 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q1 “Như người chăn cố gắng cứu con chiên khỏi miệng sư tử, \q2 nhưng chỉ giữ được hai chân và một phần lỗ tai. \q1 Thì những người Ít-ra-ên sống tại Sa-ma-ri đang nằm trên giường, \q2 và người Đa-mách đang dựa trên trường kỷ, cũng sẽ được cứu như vậy. \p \v 13 Bây giờ hãy lắng nghe điều này, và công bố khắp nhà Gia-cốp,” Chúa, là Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời Vạn Quân, phán vậy. \q1 \v 14 “Cùng trong ngày Ta hình phạt Ít-ra-ên vì tội lỗi của nó, \q2 Ta cũng sẽ tiêu diệt các bàn thờ tà thần ở Bê-tên. \q1 Các sừng bàn thờ sẽ bị chặt bỏ \q2 và rơi xuống đất. \q1 \v 15 Ta sẽ phá tan những ngôi nhà đẹp đẽ— \q2 những cung điện mùa đông và những dinh thự mùa hè của chúng— \q2 tất cả lâu đài trang hoàng bằng ngà sẽ đổ nát.” \q2 Chúa Hằng Hữu phán vậy. \c 4 \s1 Ít-ra-ên Ngoan Cố \q1 \v 1 Hãy lắng nghe tôi, hỡi những bò cái Ba-san \q2 sống trên núi Sa-ma-ri, \q1 phụ nữ các ngươi áp bức người nghèo \q2 và hành hạ người thiếu thốn, \q2 là những người thường bảo chồng mình rằng: \q2 “Hãy mang đến chúng tôi thức uống khác!” \q1 \v 2 Chúa Hằng Hữu Chí Cao đã vì đức thánh khiết Ngài, mà thề rằng: \q2 “Sẽ có ngày các ngươi sẽ bị móc sắt móc vào mũi dẫn đi. \q2 Những kẻ sót lại của các ngươi sẽ bị kéo đi như cá bị mắc phải lưỡi câu! \q1 \v 3 Các ngươi sẽ bị tống qua các lỗ thủng giữa các bức tường; \q2 các ngươi sẽ bị ném xuống Ha-môn,” \q2 Chúa Hằng Hữu phán vậy. \b \q1 \v 4 “Hãy đến Bê-tên mà dâng sinh tế cho các tà thần đi. \q2 Hãy cứ phạm tội nhiều hơn tại Ghinh-ganh. \q1 Hãy đem dâng sinh tế vào mỗi buổi sáng, \q2 và cứ mỗi ba ngày thì dâng các phần mười của các ngươi. \q1 \v 5 Hãy dâng lễ cảm tạ tà thần \q2 bằng loại bánh có men. \q1 Hãy lấy loa rao lớn khắp mọi nơi \q2 để mọi người biết về những lễ vật tự hiến! \q1 Dân Ít-ra-ên các ngươi thích làm thế mà!” \q2 Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán. \b \q1 \v 6 “Ta khiến cho mỗi thành các ngươi cạn lương thực \q2 và mang nạn đói đến mỗi thôn làng. \q1 Thế mà ngươi vẫn không quay lại với Ta,” \q2 Chúa Hằng Hữu trách. \b \q1 \v 7 “Ta giữ mưa không cho rơi \q2 lúc mùa màng các ngươi cần nước nhất. \q1 Rồi Ta cho mưa xuống thành này, \q2 trong khi thành kia vẫn hạn hán. \q1 Ta cho mưa đổ trên đám ruộng này, \q2 trong khi đám ruộng khác khô khan. \q1 \v 8 Dân chúng đi lùng sục từ thành này đến thành khác để tìm nước, \q2 nhưng vẫn không bao giờ đủ. \q1 Thế mà dân ngươi cũng không quay lại với Ta,” \q2 Chúa Hằng Hữu phán. \b \q1 \v 9 “Ta khiến các nông trại và vườn nho của các ngươi bị tàn rụi và mốc meo. \q2 Cào cào cắn nuốt tất cả cây vả và cây ô-liu \q2 Thế mà ngươi vẫn không quay lại với Ta,” \q2 Chúa Hằng Hữu phán. \b \q1 \v 10 “Ta giáng dịch bệnh trên các ngươi \q2 như Ta đã giáng dịch bệnh trên Ai Cập ngày xưa. \q1 Ta giết các trai tráng của các ngươi trong chiến tranh \q2 và dẫn đi tất cả ngựa chiến của các ngươi. \q1 Mùi hôi thối của xác chết ngập đầy không khí! \q2 Thế mà ngươi vẫn không quay lại với Ta,” \q2 Chúa Hằng Hữu phán. \b \q1 \v 11 “Ta tiêu diệt một số thành của các ngươi, \q2 như Ta đã tiêu diệt Sô-đôm và Gô-mô-rơ. \q1 Những kẻ sống sót trong các ngươi \q2 ví như cây củi bị rút ra khỏi lửa, \q1 Thế mà ngươi vẫn không quay lại với Ta,” \q2 Chúa Hằng Hữu phán. \b \q1 \v 12 “Vì thế, Ta sẽ giáng trên các ngươi tất cả tai họa Ta đã báo. \q2 Hãy chuẩn bị mà gặp Đức Chúa Trời trong tòa phán xét, hỡi toàn dân Ít-ra-ên!” \q1 \v 13 Vì Chúa Hằng Hữu là Đấng tạo hình núi non, \q2 khuấy động gió bão, và hiển lộ Ngài qua loài người. \q1 Ngài biến ánh bình minh ra bóng tối \q2 và chà đạp các nơi cao trên đất. \q2 Danh Ngài là Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời Vạn Quân! \c 5 \s1 Kêu Gọi Ăn Năn \p \v 1 Hãy lắng nghe, hỡi người Ít-ra-ên! Hãy nghe bài ai ca mà ta đang than khóc: \q1 \v 2 “Trinh nữ Ít-ra-ên ngã xuống, \q2 chẳng bao giờ chỗi dậy nữa, \q1 Nó nằm sải dài trên đất, \q2 không ai nâng nó dậy.” \p \v 3 Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: \q1 “Thành nào ra trận một nghìn quân, \q2 chỉ còn một trăm trở về; \q1 Thành nào ra trận một trăm, \q2 chỉ còn mười người sống sót.” \p \v 4 Bây giờ, đây là điều Chúa Hằng Hữu phán cùng nhà Ít-ra-ên: \q1 “Hãy tìm kiếm Ta, thì các ngươi sẽ sống! \q1 \v 5 Đừng thờ lạy các bàn thờ tà thần tại Bê-tên; \q2 đừng đi đến các miếu thờ tại Ghinh-ganh hay Bê-e-sê-ba. \q1 Vì người Ghinh-ganh sẽ bị kéo đi lưu đày, \q2 và người Bê-tên sẽ bị tàn phá.” \q1 \v 6 Hãy tìm kiếm Chúa Hằng Hữu thì các ngươi sẽ sống! \q2 Nếu không, Ngài sẽ quét sạch nhà Giô-sép như ngọn lửa, \q2 thiêu hủy các ngươi hoàn toàn. \q1 Những thần của các ngươi tại Bê-tên \q2 không thể nào dập tắt được ngọn lửa. \q1 \v 7 Các ngươi đã vặn vẹo công lý, biến nó thành nỗi đắng cay. \q2 Các ngươi coi công chính như bụi đất. \q1 \v 8 Đó chính là Chúa Hằng Hữu, Đấng dựng nên các chòm sao, \q2 chòm Bắc Đẩu\f + \fr 5:8 \fr*\ft Nt Pleiadeo\ft*\f* và chòm Thần Nông,\f + \fr 5:8 \fr*\ft Nt Orion\ft*\f* \q1 Đổi bóng tối dày đặc ra bình minh \q2 và biến ban ngày thành đêm thẳm, \q1 Ngài rút nước lên từ biển cả \q2 và đổ xuống như mưa trên khắp đất. \p Danh Ta là Chúa Hằng Hữu! \q1 \v 9 Trong nháy mắt Ngài tiêu diệt các đội quân hùng mạnh, \q2 và nghiền nát các thành trì kiên cố. \q1 \v 10 Các ngươi ghét các phán quan liêm khiết biết bao! \q2 Các ngươi xem thường những người nói lên sự thật là thể nào! \q1 \v 11 Vì các ngươi chà đạp người nghèo, \q2 ăn cắp thóc lúa bằng cách bắt họ nộp thuế.\f + \fr 5:11 \fr*\ft Ctd bóc lột họ đến tận xương tủy\ft*\f* \q1 Cho nên, dù các ngươi xây dinh thự bằng đá đẽo xinh đẹp, \q2 các ngươi cũng không bao giờ được ở. \q1 Dù các ngươi lập vườn nho xanh tốt, \q2 các ngươi cũng không được uống rượu nho mình. \q1 \v 12 Vì Ta biết tội lỗi các ngươi quá nhiều, \q2 và tội phản nghịch của các ngươi quá lớn. \q1 Các ngươi áp bức người công chính vì của hối lộ, \q2 và cướp đoạt công lý của người nghèo nơi tòa án. \q1 \v 13 Vậy nên, dưới thời kỳ bất công như thế, \q2 người khôn ngoan phải nín lặng \q1 \v 14 Hãy tìm cầu điều thiện và chạy khỏi điều ác \q2 để các ngươi được sống! \q1 Rồi Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời Vạn Quân sẽ ở cùng các ngươi, \q2 như các ngươi vẫn nói. \q1 \v 15 Hãy ghét điều ác và yêu chuộng điều thiện: \q2 hãy lập lại công lý nơi tòa án. \q1 Có lẽ Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời Vạn Quân \q2 sẽ tỏ lòng thương xót những người còn sót của nhà Giô-sép. \p \v 16 Vì thế, đây là điều mà Chúa, Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời Vạn Quân, phán: \q1 “Khắp các quảng trường sẽ vang tiếng than khóc, \q2 và trên mỗi đường phố sẽ nghe tiếng thở than. \q1 Hãy gọi các nông dân đến khóc với các ngươi, \q2 và mời những người khóc mướn đến than vãn. \q1 \v 17 Trong mọi vườn nho sẽ vang tiếng ai ca, \q2 vì Ta sẽ đến trừng phạt các ngươi,” \q2 Chúa Hằng Hữu phán vậy. \s1 Cảnh Cáo Ngày Phán Xét Gần Đến \q1 \v 18 Khốn cho các ngươi là những kẻ nói: \q2 “Mong ngày của Chúa Hằng Hữu là đây!” \q2 Các ngươi không biết các ngươi đang trông gì? \q2 Ngày của Chúa là ngày tối tăm, không có ánh sáng. \q1 \v 19 Trong ngày ấy, các ngươi sẽ như một người chạy trốn sư tử nhưng lại gặp gấu. \q2 Thoát nạn khỏi gấu, rồi chạy vào nhà dựa tay trên vách nhà \q2 thì lại bị rắn cắn. \q1 \v 20 Phải, ngày của Chúa Hằng Hữu là ngày đen tối và tuyệt vọng, \q2 không có một tia vui mừng hay hy vọng. \b \q1 \v 21 Ta ghét sự phô trương và sự giả dối của các ngươi— \q2 là những kỳ lễ và các hội đồng trọng thể đầy đạo đức giả. \q1 \v 22 Ta sẽ không nhận các lễ thiêu và lễ chay của các ngươi. \q2 Ta cũng chẳng quan tâm đến tế lễ bình an bằng sinh vật béo tốt. \q1 \v 23 Hãy đem tiếng hát ồn ào của các ngươi ra khỏi Ta! \q2 Ta sẽ không nghe tiếng đàn hạc của các ngươi đâu. \q1 \v 24 Nhưng Ta muốn thấy sự công bình tuôn tràn như nước lũ, \q2 và sự công chính tuôn chảy như dòng sông cuồn cuộn. \p \v 25 “Chẳng phải các ngươi đã từng dâng sinh tế cho Ta suốt bốn mươi năm trong hoang mạc sao, hỡi Ít-ra-ên? \v 26 Nhưng các ngươi vẫn tôn thờ các tà thần—Si-kút, thần của vua các ngươi và Ki-giun, thần của các vì sao—là các hình tượng mà các ngươi tự tạo cho mình. \v 27 Vì thế, Ta sẽ lưu đày các ngươi đến tận nơi xa, bên kia Đa-mách,” Chúa Hằng Hữu, Danh Ngài là Đức Chúa Trời Vạn Quân, phán vậy. \c 6 \q1 \v 1 Khốn cho những người sống an nhàn tại Si-ôn, \q2 và tin cậy vào sức mạnh của Sa-ma-ri! \q1 Các ngươi là những người nổi tiếng và được hâm mộ trong Ít-ra-ên, \q2 và người ta đến với các ngươi tìm sự trợ giúp. \q1 \v 2 Nhưng hãy đi đến Ca-ne \q2 để xem chuyện xảy ra tại đó. \q1 Kế đó đi đến thành Ha-mát vĩ đại \q2 rồi xuống Gát, thuộc xứ Phi-li-tin. \q1 Các ngươi có hơn gì chúng đâu, \q2 hãy xem chúng bị hủy diệt thế nào. \q1 \v 3 Các ngươi cố xua đuổi những ý nghĩ về ngày hoạn nạn, \q2 nhưng những việc làm của các ngươi lại đem ngày đoán phạt đến gần hơn. \q1 \v 4 Thật khủng khiếp vì các ngươi nằm dài trên giường ngà \q2 và dưới chân dài trên trường kỷ của mình, \q1 ăn thịt chiên béo tốt trong bầy \q2 và thưởng thức thịt bê chọn lọc trong chuồng. \q1 \v 5 Các ngươi ngâm nga theo nhịp đàn hạc \q2 và làm cho mình nhiều nhạc cụ mới như Đa-vít. \q1 \v 6 Các ngươi uống rượu bằng tô \q2 và xức những loại dầu thơm quý giá. \q2 Các ngươi chẳng quan tâm về họa diệt vong của nhà Giô-sép. \q1 \v 7 Vì thế, các ngươi sẽ là những người đầu tiên bị dẫn đi lưu đày. \q2 Thình lình, tất cả cuộc ăn chơi chè chén của các ngươi sẽ chấm dứt. \p \v 8 Chúa Hằng Hữu Chí Cao lấy chính Danh Ngài mà thề, và đây là điều Ngài, Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời Vạn Quân, phán: \q1 “Ta ghê tởm sự kiêu ngạo của nhà Gia-cốp, \q2 và Ta ghét những đền đài nguy nga của chúng. \q1 Ta sẽ nộp thành này \q2 và mọi thứ trong thành cho quân thù của chúng.” \p \v 9 (Nếu có nhà nào còn lại mười người, chúng cũng sẽ bị giết chết. \v 10 Khi những bà con là người có trách nhiệm thiêu các xác chết vào nhà để đem các thi thể ra ngoài, người ấy sẽ hỏi kẻ duy nhất còn sống sót rằng: “Còn ai nữa không?” Khi người kia đáp: “Không, vì …,” thì người ấy sẽ cắt ngang và nói: “Ngừng lại! Đừng nói đến Danh của Chúa Hằng Hữu”.) \q1 \v 11 Khi Chúa Hằng Hữu ban lệnh này, \q2 cả nhà lớn lẫn nhà nhỏ đều sẽ bị đập tan thành mảnh. \q1 \v 12 Có thể nào ngựa phi trên mỏm đá? \q2 Bò có thể ra cày trên đó chăng? \q1 Nhưng các ngươi thật ngu muội khi biến sự công lý thành thuốc độc \q2 và trái ngọt của sự công chính thành cay đắng. \q1 \v 13 Các ngươi hân hoan vì chinh phục được Lô Đê-ba. \q2 Các ngươi khoác lác: “Chẳng phải chúng ta chiếm Cát-na-im bằng sức mình sao?” \b \q1 \v 14 “Hỡi người Ít-ra-ên! Ta sẽ sai một nước thù nghịch chống lại các ngươi,” \q2 Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời Vạn Quân phán. \q1 “Chúng sẽ đàn áp các ngươi khắp cả xứ— \q2 từ phía bắc Lê-bô Ha-mát \q2 đến tận phía nam Suối A-ra-ba.” \c 7 \s1 Khải Tượng về Cào Cào \p \v 1 Chúa Hằng Hữu Chí Cao cho tôi thấy một khải tượng. Tôi thấy Ngài đang chuẩn bị sai một đoàn cào cào thật đông tràn vào xứ. Nó xảy ra sau mùa gặt thứ nhất cho nhà vua và vừa lúc mùa gặt thứ hai sắp sửa đến. \v 2 Trong khải tượng của tôi, cào cào ăn hết ngũ cốc và cỏ xanh trong xứ. Tôi cầu nguyện khẩn thiết: “Lạy Chúa Hằng Hữu Chí Cao, van xin Ngài tha thứ cho chúng con, chúng con không thể sống sót, vì nhà Gia-cốp quá nhỏ.” \p \v 3 Vậy, Chúa Hằng Hữu liền đổi ý. Ngài phán: “Ta sẽ không giáng tai họa ấy.” \s1 Khải Tượng về Lửa \p \v 4 Chúa Hằng Hữu Chí Cao cho tôi thấy một khải tượng khác. Tôi thấy Ngài chuẩn bị hình phạt dân Ngài bằng ngọn lửa lớn cháy phừng. Lửa đã làm khô cạn vực sâu và thiêu đốt cả xứ. \v 5 Tôi cầu nguyện: “Lạy Chúa Hằng Hữu Chí Cao, van xin Ngài ngừng tay, chúng con không thể sống sót, vì nhà Gia-cốp quá nhỏ.” \p \v 6 Rồi Chúa Hằng Hữu cũng đổi ý. Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: “Ta sẽ không giáng tai họa ấy.” \s1 Khải Tượng về Hàng Dây Dọi \p \v 7 Chúa lại cho tôi thấy một khải tượng khác. Tôi thấy Chúa đứng bên cạnh một bức tường được dựng bằng dây dọi. Ngài dùng dây dọi để làm chuẩn đo. \v 8 Chúa Hằng Hữu phán bảo tôi: “A-mốt, con thấy gì?” \p Tôi thưa: “Con thấy dây dọi.” \p Chúa phán tiếp: “Ta sẽ thử dân Ta với dây dọi này. Ta không thể bỏ qua tội lỗi của chúng nữa. \v 9 Các miếu thờ tà thần tại những nơi cao của Y-sác sẽ bị phá tan, và các đền miễu của Ít-ra-ên sẽ bị tiêu diệt; Ta sẽ dùng gươm chống lại Vua Giê-rô-bô-am.” \s1 A-mốt và A-ma-xia \p \v 10 A-ma-xia, là thầy tế lễ của thành Bê-tên, gửi thông điệp cho Giê-rô-bô-am, vua nước Ít-ra-ên: “A-mốt đang âm mưu chống lại vua ngay giữa dân tộc! Đất này không thể nào chịu nỗi những lời hắn nói. \v 11 Người ấy dám nói rằng: ‘Giê-rô-bô-am sẽ sớm bị giết, và người Ít-ra-ên sẽ bị lưu đày xa.’” \p \v 12 Rồi A-ma-xia ra lệnh cho A-mốt: “Hãy ra khỏi đây, hỡi tiên tri kia! Hãy quay về Giu-đa mà kiếm ăn, mà nói tiên tri! \v 13 Đừng làm phiền chúng ta và nói tiên tri ở Bê-tên làm gì nữa. Vì đây là thánh địa của vua, và đền thờ của vương quốc!” \p \v 14 Nhưng A-mốt đáp: “Tôi vốn không phải là tiên tri, cũng không được học làm tiên tri bao giờ. Tôi chỉ là một người chăn chiên, và chăm sóc cây sung. \v 15 Nhưng Chúa Hằng Hữu đã gọi tôi ra khỏi việc chăn bầy và bảo tôi rằng: ‘Hãy đi nói tiên tri cho dân tộc Ít-ra-ên của Ta.’ \v 16 Nên bây giờ, ông hãy nghe sứ điệp của Chúa Hằng Hữu: \q1 Ông nói: \q2 ‘Đừng nói tiên tri chống lại dân tộc Ít-ra-ên. \q2 Đừng nói lời nào chống lại nhà Y-sác.’ \q1 \v 17 Nên đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: \q2 ‘Này, vợ ngươi sẽ trở thành gái mãi dâm trong thành này, \q2 con trai và con gái ngươi sẽ bị giết. \q1 Đất ruộng ngươi sẽ bị chia phần, \q2 và chính ngươi sẽ chết tại đất khách quê người, \q2 Dân tộc Ít-ra-ên sẽ bị lưu đày xa quê hương.’” \c 8 \s1 Khải Tượng Giỏ Trái Cây Chín \p \v 1 Chúa Hằng Hữu Chí Cao cho tôi thấy một khải tượng khác. Trong đó tôi thấy một giỏ đầy trái chín.\f + \fr 8:1 \fr*\ft Ctd trái mùa hạ\ft*\f* \v 2 Chúa hỏi: “A-mốt, con thấy gì?” \p Tôi thưa: “Con thấy một giỏ trái cây chín.” \p Chúa Hằng Hữu tiếp: “Như trái cây này, Ít-ra-ên đã tới ngày trừng phạt! Ta không thể bỏ qua hình phạt được nữa. \v 3 Trong ngày ấy, những bài hát trong Đền Thờ sẽ là những tiếng khóc than. Xác chết nằm la liệt khắp nơi. Chúng sẽ bị mang ra khỏi thành trong im lặng. Ta, Chúa Hằng Hữu Chí Cao, đã phán vậy!” \q1 \v 4 Hãy nghe đây! Các ngươi cướp người nghèo khổ \q2 và bóc lột người bần cùng trong xứ! \q1 \v 5 Các ngươi không thể chờ cho qua ngày Sa-bát \q2 và các kỳ lễ kết thúc \q2 rồi mới trở lại để lừa người túng thiếu. \q1 Các ngươi đong thóc lúa bằng bàn cân gian lận \q2 và lường gạt người mua bằng trái cân giả dối. \q1 \v 6 Lúa các ngươi bán đã được pha trộn \q2 với những lúa lép rơi trên đất. \q1 Các ngươi bức ép người túng quẫn \q2 vì một miếng bạc hay một đôi dép. \q1 \v 7 Bây giờ Chúa Hằng Hữu đã thề \q2 trong Danh Ngài, là Vinh Dự của Gia-cốp, rằng: \q1 “Ta sẽ không bao giờ quên \q2 những việc gian ác các ngươi đã làm! \q1 \v 8 Đất nước này sẽ run rẩy vì việc làm của các ngươi \q2 và mọi người sẽ than khóc. \q1 Cả xứ sẽ dâng lên như Sông Nin vào mùa lụt; \q2 cuồn cuộn chảy, rồi cùng nhau chìm xuống.” \b \q1 \v 9 Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: “Trong ngày ấy, \q2 Ta sẽ làm cho mặt trời lặn giữa trưa \q2 và khiến mặt đất tối tăm giữa ban ngày. \q1 \v 10 Ta sẽ biến các ngày lễ hội của các ngươi thành những ngày tang chế \q2 và biến những bài hát thành điệu ai ca. \q1 Các ngươi sẽ mặc áo tang \q2 và cạo đầu trong sầu khổ— \q2 như khi đứa con một của các ngươi chết. \q2 Thật là ngày cay đắng dường nào!” \b \q1 \v 11 Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: “Chắc chắn ngày ấy sẽ đến, \q2 Ta sẽ sai nạn đói tràn lan khắp đất— \q1 không phải đói vì không có thức ăn nước uống, \q2 nhưng đói vì không được nghe lời Chúa Hằng Hữu. \q1 \v 12 Người ta sẽ loạng choạng từ biển này qua biển khác \q2 và đi lang thang từ biên giới này đến biên giới khác \q2 để tìm kiếm lời Chúa Hằng Hữu, \q2 nhưng sẽ không tìm được. \q1 \v 13 Trong ngày đó, các thiếu nữ xinh đẹp và các thanh niên cường tráng \q2 sẽ ngã gục, \q2 khát vì thiếu lời của Chúa Hằng Hữu. \q1 \v 14 Những kẻ thề nguyện trong danh các thần của Sa-ma-ri— \q2 những ai thề trong danh các thần của Đan \q2 và thề trong danh các thần của Bê-e-sê-ba— \q2 tất cả sẽ bị ngã xuống, \q2 không bao giờ chỗi dậy.” \c 9 \s1 Khải Tượng về Đức Chúa Trời tại Bàn Thờ \p \v 1 Tôi thấy khải tượng về Chúa đứng bên bàn thờ. Ngài phán: \q1 “Hãy đập tan các đỉnh cột của Đền Thờ, \q2 cho đến khi ngạch cửa rúng động. \q1 Đổ xuống đầu dân chúng. \q2 Ta sẽ diệt những người sống sót bằng gươm. \q2 Không ai chạy thoát! \b \q1 \v 2 Dù chúng đào hố sâu trốn xuống tận âm phủ, \q2 Ta cũng sẽ kéo chúng lên. \q2 Dù chúng leo lên tận trời xanh, \q2 Ta cũng sẽ kéo chúng xuống. \q1 \v 3 Dù chúng trốn trên đỉnh của Núi Cát-mên, \q2 Ta cũng sẽ tìm ra và bắt hết. \q2 Dù chúng lặn xuống tận đáy biển, \q2 Ta cũng sẽ sai rắn biển cắn chết chúng dưới vực sâu. \q1 \v 4 Dù chúng bị quân thù lưu đày, \q2 Ta cũng sẽ sai gươm giết chúng tại đó. \q1 Ta đã định giáng tai họa trên chúng \q2 chứ không cứu giúp chúng.” \b \q1 \v 5 Chúa, là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, \q2 chạm đến mặt đất thì nó chảy tan, \q2 khiến dân cư trên đất phải than khóc. \q1 Cả đất đai lẫn dân cư sẽ tràn lên như Sông Nin, \q2 rồi cùng nhau chìm xuống. \q1 \v 6 Nhà của Chúa Hằng Hữu vươn tận các tầng trời, \q2 trong khi đặt nền trên trái đất, \q1 Chúa gọi nước từ các đại dương đến \q2 và đổ ra như mưa trên đất. \q2 Danh Ngài là Chúa Hằng Hữu! \b \q1 \v 7 “Hỡi Ít-ra-ên, các ngươi đối với Ta \q2 có khác gì người Ê-thi-ô-pi chăng?” Chúa Hằng Hữu hỏi. \q1 “Ta đã đem dân tộc Ít-ra-ên ra khỏi Ai Cập, \q2 Ta cũng đem người Phi-li-tin ra khỏi Cáp-tô, \q2 và dẫn người A-ram ra khỏi Ki-rơ. \b \q1 \v 8 Ta, Chúa Hằng Hữu Chí Cao, \q2 đang dõi mắt theo dân tộc Ít-ra-ên tội lỗi này. \q1 Ta sẽ hủy diệt nó \q2 khỏi mặt đất. \q1 Nhưng, Ta sẽ không tuyệt diệt nhà Gia-cốp.” \q2 Chúa Hằng Hữu phán. \q1 \v 9 “Vì Ta sẽ ra lệnh \q2 sàng sảy Ít-ra-ên giữa các dân tộc \q2 như sàng lúa, \q2 không một hạt lúa chắc nào rơi xuống đất. \q1 \v 10 Nhưng tất cả tội nhân sẽ bị gươm giết— \q2 là những kẻ nói rằng: ‘Không có điều xấu nào xảy đến cho chúng ta.’” \s1 Lời Hứa Phục Hồi \q1 \v 11 “Trong ngày ấy, Ta sẽ xây lại đền tạm của Đa-vít đã bị sụp đổ. \q2 Ta sẽ vá những bức tường hư hại. \q1 Ta sẽ dựng lại những nơi đổ nát, \q2 và khôi phục vinh quang như ngày xưa. \q1 \v 12 Ít-ra-ên sẽ được phần còn lại của Ê-đôm \q2 và tất cả các nước được gọi bằng Danh Ta.” \q1 Chúa Hằng Hữu đã phán, \q2 và Ngài sẽ thực hiện những việc ấy. \b \q1 \v 13 Chúa Hằng Hữu phán: “Sẽ có ngày, \q2 ngươi cũng theo kịp người gặt, \q2 người ép rượu đuổi kịp người gieo giống. \q1 Các núi đồi sẽ tràn đầy rượu nho, \q2 tuôn chảy khắp mọi đồi. \q1 \v 14 Ta sẽ đem Ít-ra-ên, dân bị lưu đày của Ta \q2 trở về từ các nước xa xôi, \q1 họ sẽ xây lại các thành đổ nát \q2 và an cư lạc nghiệp tại đó. \q1 Họ sẽ trồng vườn nho và vườn cây trái; \q2 họ sẽ được ăn trái cây họ trồng và uống rượu nho của họ. \q1 \v 15 Ta sẽ trồng họ tại đó \q2 trên chính đất của họ. \q1 Họ sẽ không bao giờ bị nhổ đi \q2 khỏi mảnh đất mà Ta đã ban cho họ.” \q2 Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời các ngươi phán vậy.